Trong những năm qua, công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khả quan, góp phần bảo
vệ, lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa của quá khứ, đồng thời, khai
thác tốt phương diện kinh tế của di sản, đóng góp hiệu quả cho ngân sách quốc
gia.
Tuy nhiên, công cuộc này cũng đang đối mặt
với rất nhiều thách thức, khó khăn trong việc xử
lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữ gìn và khai
thác, mục tiêu kinh tế và mục tiêu văn hóa.
MỘT SỐ KHUYNH HƯỚNG ỨNG XỬ TRONG QUAN HỆ GIỮA BẢO TỒN DI SẢN VĂN
HÓA VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Thứ nhất, bảo tồn di sản tốt, nhưng không khai thác được giá trị
kinh tế.
Kiểu ứng xử này mang đậm dấu ấn của tư duy thời bao cấp, khi công
cuộc bảo tồn di sản được Nhà nước đảm bảo về mọi mặt (tài chính, cơ sở vật
chất, nguồn lực con người…), do đó, thường thụ động, ít chịu đổi mới, không dám
nghĩ, dám làm, dẫn tới tình trạng nhiều khi để di sản nằm “đắp chiếu”, sống
trên di sản mà vẫn “đói”.
Bên cạnh đó, còn có lý do xuất phát từ nhận thức, với quan điểm
cho rằng bảo vệ di sản văn hóa là cần bảo tồn nguyên vẹn (nguyên trạng) các di
sản văn hóa, không làm biến dạng, thay đổi hiện trạng của di sản. Theo quan
diểm này, di sản là những báu vật còn sót lại của quá khứ, cho nên phải gìn giữ
cẩn trọng, không để mất mát, suy suyển,
mai một. Việc thay đổi, làm mới di sản có thể phủ lên các lớp văn hóa
mới, làm cho các thế hệ sau không truy nguyên được những giá trị nguyên
gốc của di sản. Do vậy có những
ý kiến cho rằng: “Nói tới bảo tồn, ta cần phải nghĩ đến việc
giữ gìn toàn bộ và nguyên vẹn đối tượng cần bảo tồn”(1) hay “Nếu hôm nay chúng ta giữ những thứ không
thật, mai sau các thế hệ tiếp theo lại căn cứ vào những thứ
không thật ấy để mà quy chiếu thì sẽ thật là thảm họa”(2). Một
số nhà nghiên cứu còn lên án sự pha tạp giữa các yếu tố truyền thống
và hiện đại và đòi hỏi phải loại bỏ sự pha trộn thô kệch đó(3).
Điều này là hoàn toàn đúng đối với các di sản văn hóa vật thể. Với
các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội
họa, di chỉ khảo cổ học (như quan niệm của UNESCO), hay di tích lịch sử - văn hóa,danh lamthắng cảnh,divật,cổvật, bảovật quốcgia (như Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam), thì không thể nhân danh “bảo tồn phát triển” để làm
mới các hiện vật, xâm hại các di tích, phá vỡ cảnh quan các danh lam thắng
cảnh. Làm như vậy sẽ là một sự phá hoại di sản, là có tội với cha
ông, là tự mình đánh mất những kho tàng vô giá của quá
khứ. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần của các Hiến chương,
Công ước quốc tế như: Hiến chương Athens về bảo tồn di sản văn
hóa (1931), Hiến chương
Venice về bảo tồn và trùng tu di tích (1964), Hiến
chương Bura (1979), Văn
kiện Nara (1994), Nguyên
tắc chỉ đạo việc giáo dục và đào tạo về bảo vệ di tích, cụm công trình và di
chỉ của ICOMOS (1993), Công
ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (1972) của UNESCO, v.v... Bảo tồn nguyên trạng ở đây được hiểu là cần giữ nguyên trạng thái khi nó được phát hiện, được xếp
hạng di tích, được luật hóa.
Tuy nhiên, bảo tồn tốt không có nghĩa là khư khư
giữ nguyên di sản mà không biết khai thác, phát huy các giá trị của nó. Hiện nay, nhiều địa phương sở hữu những di sản
rất quý, đầy tiềm năng để khai thác phát huy, nhưng do vẫn trung thành với cách
làm cũ, tư duy theo lối mòn, không năng động đổi mới, nên nhiều khi sống trên
di sản mà không khai thác được giá trị di sản. Một số bảo tàng sở hữu những cổ vật, bảo vật quý giá, nhưng do lo lắng
mất mát, hư hại đã chủ yếu thiên về bảo vệ, cất giữ di sản, thậm chí cho vào
kho khóa kỹ, cách ly với đời sống xã hội.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, nhiều ý
kiến lên án những cải biên, nâng cao, phát triển. Ví dụ như phải tuân thủ lối
hát của Quan họ cổ, Ca Trù phải hát “đúng như các cụ ngày xưa”, lễ hội phải
chuẩn chỉnh như truyền thống… Nhưng như vậy thì rất khó phát huy giá trị của di
sản trong đời sống đương đại, không hấp dẫn được công chúng thời đại mới, nhất
là giới trẻ.
Có thể thấy, nếu chỉ quan tâm đến bảo tồn di
sản, giữ gìn truyền thống mà khước từ mọi yếu tố mới, bảo tồn “đông
lạnh” di sản thì sẽ rất khó phát huy giá trị của di sản, không khai
thác được phương diện kinh tế, không phục vụ được mục tiêu phát triển.
Thứ hai, khai thác giá trị kinh tế tốt, nhưng bảo tồn di sản
kém.
Đây là khuynh hướng khai thác tối đa giá trị kinh tế của di sản,
đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết. Vì thế, khai thác cạn kiệt di sản, xâm
hại, thậm chí bóp méo di sản để thu lợi.
Hiện nay di sản văn hóa đang trở thành một nguồn
lực lớn, một tài nguyên nhân văn đầy tiềm năng để phát triển
kinh tế - xã hội, do vậy nhiều địa phương, tổ chức, cá nhân đã tận dụng
thế mạnh này để khai thác tốt đa giá trị kinh tế của di sản.
Tuy nhiên, trong không ít trường hợp do quá quan tâm đến phương
diện kinh tế, đặt nặng mục tiêu lợi nhuận, nên đã đặt nhẹ công tác bảo tồn, chỉ
cốt sao doanh thu càng nhiều càng tốt.
Trên phương diện lý luận, nhiều người biện hộ rằng đó chính là quan điểm “bảo tồn phát
triển”. Với cách tiếp cận này, họ cho
rằng có thể biến di sản thành hàng hóa có giá trị kinh tế cao,
thành sản phẩm du lịch, sự kiện văn hóa đóng góp vào nguồn
thu ngân sách quốc gia(4). Việc bảo tồn không nhất thiết phải phụ thuộc
100% vào những cứ liệu của quá khứ mà có thể có thêm những sáng tạo, đưa thêm
những yếu tố văn hóa mới nhằm gia tăng tính hấp dẫn của di sản.
Từ quan điểm này đã dẫn đến khuynh hướng hoành tráng hóa di
sản, cố gắng làm cho di sản “to đẹp” hơn, “hiện đại” hơn, nổi tiếng hơn để
thu hút khách. Các địa phương đua nhau tôn tạo, làm mới di tích,
“nâng cấp di sản”. Năm 2012, chùa Trăm Gian (huyện Chương Mỹ, Tp Hà
Nội) đã bị trùng tu, tôn tạo theo kiểu “làm mới di
tích” bằng những nguyên vật liệu, cấu kiện mới, thậm chí
đập đi xây mới hoàn toàn nhà Tổ và gác Khánh. Ngoài ra còn hàng
loạt trường hợp trùng tu, tôn tạo không
quan tâm đến yếu tố gốc như: Lăng Ngô Quyền (2014), Tam quan chùa
Bổ Đà (2017), Bia Quốc học Huế (2017), xây mới tượng Bà Chúa Xứ thứ 2 trên núi
Sam (2017), v.v… Người ta thậm chí còn dám làm động giả, chùa giả, “biến
không thành có” để thu lời, kiếm chác. Vùng lõi Quần thể danh thắng Tràng An
từng ngang nhiên bị xẻ núi dựng cột bê tông làm đường dài hơn
1km với hơn 2.200 bậc, v.v…
Các di sản văn hóa phi vật thể cũng được quan tâm làm cho “hoành
tráng”. Người ta đua nhau lập các “kỷ lục Guinness”,
như: dàn đồng ca với 3.500 liền anh, liền chị Quan họ
ở Bắc Ninh (năm 2012), bánh chưng khổng lồ nặng 5,7 tấn dâng
lễ tại đền Quốc Mẫu Âu Cơ, Hưng Yên (2014), bánh dày nặng hơn 2 tấn tại lễ hội cầu phúc đền Độc
Cước, Thanh Hóa (2017) hay những trống đồng lớn nhất, lọ lục bình
to nhất, đoàn trình diễn áo dài đông nhất, v.v...
Bên cạnh đó là tình trạng lạm dụng, khai thác cạn kiệt di sản
không tính đến đặc điểm, tính chất, tuổi thọ của chúng. Đơn cử như việc tổ chức
các cuộc thi hoa hậu, các sự kiện lớn, ăn uống, tiệc tùng trong trong
các hang động của Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng… Theo các nhà địa chất học,
việc sử dụng âm thanh, ánh sáng cường độ lớn, tụ
tập đông người sẽ làm tăng nhiệt độ và khí CO2, SO2, H2S, kích thích nấm mốc, rêu, địa tảo phát triển, xâm
hại các thạch nhũ và măng đá mà thiên nhiên phải
kiến tạo hàng ngàn năm mới có được. Trong khi đó, ở các nước người ta
thậm chí còn phải đóng cửa định kỳ hang động để cho chúng nghỉ ngơi, phục hồi
sau một thời gian khai thác.
Xu hướng thương mại hóa di sản thể hiện
ở những nỗ lực mở rộng quy mô lễ hội, bóp méo bản chất của diễn
xướng dân gian, ngụy tạo các sinh hoạt văn hóa cổ truyền,
cốt sao thu hút được càng nhiều du khách càng tốt nhằm thu
lợi từ các dịch vụ liên quan. Nghi lễ hầu
đồng trong tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được đưa lên sân khấu, hoặc
được tổ chức tùy tiện khắp nơi: trên vỉa hè, trong quán xá, thậm
chí là trong đám cưới.
Chính điều đó đã góp phần là dung tục hóa, tầm thường hóa,
giải thiêng hóa di sản, như đối với cồng chiêng Tây Nguyên (phục vụ du lịch ở Lạc Dương, Lâm Đồng), nhã
nhạc cung đình Huế (tại các fesstival Huế), hát Xoan (phục
vụ du khách ở Phú Thọ), hay trình diễn Ca Trù, Ví
Giặm phục vụ thực khách tại các nhà hàng, khách sạn… Đến những
loại hình di sản “tài tử”, “nghệ thuật vị nghệ thuật” vốn không quan tâm
đến khía cạnh kinh tế như Đờn ca tài tử, Dân ca Quan họ Bắc
Ninh... cũng được khai thác để “xin tiền”.
Từ phương diện kinh tế, có thể những cách tân,
làm mới này sẽ tạo nên sự sinh động, mới lạ, hấp dẫn đối
với công chúng dẫn tới doanh thu cao. Nhưng từ phương diện văn hóa,
đây là sự bóp méo, làm sai lệch di sản. Nguy hiểm hơn là công chúng, du khách
trong nước và quốc tế sẽ có những hiểu biết, nhận thức hoàn toàn sai lạc về di
sản văn hóa của Việt Nam.
Tất cả những điều đó góp phần tạo nên những
“thực hành xấu” trong bảo tồn di sản văn hóa, đôi khi
trở nên phi văn hóa, đi ngược lại tinh thần bảo tồn di sản của
UNESCO và Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà
nghiên cứu, quá trình “sân khấu hóa”, “sáng tạo truyền thống” đã làm thay đổi
bản chất, nội dung, ý nghĩa của nhiều di sản(5).
Về lâu dài, việc quá coi trọng mục tiêu kinh tế, đặt doanh
thu, lợi nhuận lên trên hết mà không chú ý đến nhu cầu bảo tồn giá trị di
sản văn hóa có thể tạo ra những hệ lụy về phát triển văn hóa - xã
hội, cản trở sự phát triển bền vững của cộng đồng.
Thứ ba, cân đối, hài hòa giữa bảo tồn di sản với phát triển kinh
tế - xã hội.
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, những di sản nào được
đối xử một cách thỏa đáng cả hai vế bảo tồn và phát huy, giữ gìn và khai thác
thì sẽ thu được kết quả khả quan và dài lâu. Đây là khuynh hướng ứng xử
với di sản lý tưởng nhất và được khuyến khích nhất, như vậy, sẽ đạt được “mục
tiêu kép” vừa bảo vệ được di sản, vừa đạt được mục tiêu kinh tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, đây cũng là một bài toán khó không dễ gì thực hiện và hiện
nay chỉ có một số di sản đạt tới.
Hội An là một ví dụ tiêu biểu về sự kết hợp hài hòa giữa bảo
tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Các ngôi nhà cổ
với những nét kiến trúc Nhật Bản và Trung Hoa đa phần được quan tâm
trùng tu, tôn tạo, bảo vệ đúng quy cách; các đền, chùa, hội quán vẫn giữ được
bản sắc riêng; những đêm Rằm phố cổ vừa giữ được không khí cổ xưa, vừa mang hơi
thở cuộc sống mới…
Quần thể di tích cố đô Huế, sau một thời gian bị UNESCO đưa
vào “danh sách đen”, đến nay đã trở thành nơi
bảo tồn khá tốt các giá trị cảnh quan, kiến trúc, nghệ thuật cũng như các giá
trị văn hóa phi vật thể gắn với vùng đất cố đô, với con người Huế. Những kỳ
festival với sự góp mặt của các làng nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, trang
phục phối hợp cùng với các sự kiện văn hóa mới đã ngày càng khẳng định thương
hiệu. Năm 2019, tổng
lượng khách tham quan các di tích cố đô Huế đạt hơn 3,5 triệu lượt, tổng doanh
thu bán vé đạt gần 388 tỷ đồng (tăng 1,6% so năm 2018), doanh thu dịch vụ đạt
gần 19 tỷ đồng.
Tại Vịnh Hạ Long, sau khi bị UNESCO đưa
vào danh sách khuyến nghị, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều cố
gắng cải thiện và đạt nhiều bước tiến trong việc kết hợp giữa khai thác cảnh
quan thiên nhiên tuyệt đẹp với những hình
thức lễ hội mới như trình diễn đường phố, carnaval, ẩm thực đường phố… Năm
2019, Vịnh Hạ Long đã đón được
4,4 triệu khách, trong đó có 2,9 triệu khách quốc tế, doanh thu từ du lịch
đạt 1.237 tỷ đồng.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng là mô hình vừa bảo tồn rất tốt các
giá trị di tích, hiện vật, cảnh quan, vừa kết hợp tổ chức những sự kiện văn
hóa, nghệ thuật, hoạt động du lịch đa dạng tạo được nguồn thu lớn và sức sống
cho di sản. Nhờ vậy, năm 2019, khu di tích
đã đón tiếp được hơn 2 triệu lượt khách tham quan trong nước và quốc tế, tổng
thu từ khách du lịch đạt 45,7 tỷ đồng.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nhằm xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển
kinh tế - xã hội, có thể tập trung vào một số giải pháp như sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Trước hết, cần tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho
chính các cấp lãnh đạo của chính quyền địa phương. Hiện nay, nhận thức, sự
quan tâm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của ngay tầng lớp lãnh đạo ở
nhiều địa phương cũng chưa thực sự thấu đáo, đầy đủ thể hiện trên những phương
diện sau: 1) Chưa có thông tin, hiểu biết sâu sắc, đúng đắn về các quan điểm,
nguyên tắc bảo tồn và phát huy di sản, từ đó dẫn đến những định hướng,
quyết sách sai lầm, chệch hướng; 2) Hiểu biết chưa thấu đáo về bản chất, ý
nghĩa của các danh hiệu di sản (của UNESCO, cấp quốc gia, cấp tỉnh…), dẫn
đến tình trạng chạy đua theo danh hiệu, theo hình thức, phong trào mà không đi
vào thực chất; 3) Coi di sản chủ yếu là để phục vụ phát triển du lịch, du lịch
là cứu cánh để bảo vệ di sản.
Để khắc phục những hiểu biết sai lệch như vậy, trước hết, cần nâng
cao nhận thức cho “quan trí” đồng thời với nâng cao dân trí. Muốn tránh những
tranh cãi vô ích về nguyên tắc bảo vệ và phát huy giá trị di sản, thì tốt nhất
là căn cứ vào các quan điểm, định hướng của UNESCO (qua các Công ước về di sản
văn hóa năm 1972 và 2003, các cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với các di sản
được UNESCO ghi danh). Nhìn chung, những “thực hành tốt” theo đánh giá của
UNESCO sẽ là những khuôn mẫu, tiêu chí để tham khảo trong việc ứng xử với
di sản.
Đối với các di sản văn hóa vật thể, phải ưu tiên hàng đầu việc bảo vệ và
phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của chúng. Cố gắng lưu giữ và
chuyển giao tính chân xác lịch sử của chúng cho các thế hệ tiếp theo
- những người sẽ có các điều kiện vật chất và kỹ thuật chắc chắn hơn chúng ta
để đưa ra những phương án bảo tồn thích hợp hơn. Cần cố gắng duy trì
những chức năng truyền thống của di sản bên cạnh việc tạo lập những
công năng mới của chúng.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, hoạt động bảo tồn và phát huy chính
là để giữ gìn những vốn quý của văn hóa truyền
thống, đồng thời thổi luồng sinh khí mới tiếp sức cho nó tồn tại trong
cuộc sống đương đại. Như vậy, bảo vệ di sản chính là “giữ lửa và tiếp lửa” cho
di sản.
Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho
cộng đồng là chủ thể của di sản hoặc sống dựa vào di sản. Tăng cường phổ biến
pháp luật, trang bị cho họ những hiểu biết, kiến thức về giá trị của di sản,
các nguyên tắc ứng xử với di sản để góp phần khắc phục tình trạng thương mại
hóa, hoành tráng hóa, giải thiêng hóa di sản.
Đặc biệt để hướng tới phát triển bền vững, cần giáo dục ý thức và
hành động ứng xử với môi trường, không xả rác bừa bãi, phá vỡ cảnh quan, xâm
hại môi trường sinh thái.
Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản.
Trước hết, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về di sản văn hóa. Mặc dù chúng ta đã có Luật Di sản văn hóa từ
năm 2001 và bổ sung, sửa đổi năm 2009, nhưng nhiều thuật ngữ, khái niệm, nội
dung của Luật này còn chưa tương thích với các văn kiện quốc tế, nhất là với
hai Công ước năm 1972 và 2003 của UNESCO. Do vậy, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung
Luật cũng như xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện sao cho đạt hiệu lực,
hiệu quả cao.
Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra việc thực thi các văn bản
quản lý, các hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, thường xuyên tiến
hành thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện các sai phạm. Cần có chế tài xử
phạt phù hợp, nghiêm khắc, đủ sức răn đe để hạn chế các tái phạm.
Tuân thủ và thực hiện nghiêm các Quy hoạch, Kế hoạch, Đề án, Dự án
về bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kiểm kê, làm hồ sơ khoa học
cho các di sản, làm căn cứ cho công tác bảo tồn và phát huy.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn và phát
huy di sản. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao, năng
lực tốt về quản lý di sản văn hóa.
Phân bổ hợp lý và quản lý tốt các nguồn lực đầu tư trong công tác
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Ba là, phát huy vai trò của cộng đồng.
Phát huy vai trò tự quản, tự giác và chủ động của cộng đồng trong
công cuộc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Khuyến khích cộng đồng tự
nguyện tham gia giữ gìn, phát huy di sản. Trao quyền cho cộng đồng trong quản
lý di tích, danh thắng, tổ chức lễ hội, thực hành di sản văn hóa phi vật thể…
Muốn vậy phải xử lý hài hòa lợi ích và trách
nhiệm giữa Nhà nước và cộng đồng trong quá trình quản lý, khai thác và bảo vệ
di sản. Phân định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi từ cả hai
phía. Cần đảm bảo các hoạt động kinh tế lâu dài, cung cấp những lợi ích kinh tế
và xã hội tới tất cả những người được hưởng lợi từ di sản, từ đó
kích thích họ tự nguyện, tự giác bảo vệ di sản, tạo nên chất keo gắn kết cộng
đồng với di sản. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực khác nhau trong
việc bảo tồn di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, cũng cần tránh xu hướng “hành
chính hóa”, “Nhà nước hóa” di sản, chính quyền “lấn sân”, làm thay người dân
trong thực hành di sản. Việc làm này vô hình trung sẽ đẩy người dân rời xa
bản chất của di sản và tách di sản ra khỏi môi trường sống đích thực
của nó. Chỉ khi người dân có hiểu biết sâu sắc và có sự tham gia chủ động vào
việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản, thì khi đó hiệu quả mới bền
vững, lâu dài.
Bốn là, tận dụng vai trò của các nhà khoa học, chuyên gia, phản
biện xã hội trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Để công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di
sản gắn với phát triển bền vững đạt được hiệu quả cần huy động trí tuệ, công
sức, sáng kiến của toàn xã hội từ nhiều phía: nhà quản lý, cộng đồng, các cơ
quan truyền thông, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực di sản.
Thực tiễn cho thấy, báo chí và các cơ quan truyền thông là một
kênh giám sát các hoạt động bảo tồn và khai thác di sản rất hữu hiệu, sâu sát.
Với lực lượng thanh tra, kiểm tra còn nhiều hạn chế, các cơ quan quản lý khó có
thể bao quát hết các hoạt động trong lĩnh vực di sản diễn ra trên cả
nước. Chính các nhà báo và dư luận xã hội là đội ngũ kiểm soát đắc lực cho công
cuộc này. Rất nhiều vụ việc nổi cộm, bức xúc, các hiện tượng tiêu cực trong ứng
xử với di sản được báo đài đưa tin hay người dân phản ánh thông qua mạng xã
hội, đã kịp thời cung cấp thông tin đến các nhà quản lý.
Cần tranh thủ ý kiến đóng góp, tư vấn của các nhà khoa học, chuyên
gia trong lĩnh vực di sản, nhất là đối với những trường hợp phức tạp, nhạy cảm,
gây nhiều tranh cãi.
Cần tận dụng sự hỗ trợ về chuyên môn và kỹ thuật của các chuyên
gia UNESCO (đang làm việc trong các Dự án của UNESCO tại Việt Nam hay ở
Văn phòng UNESCO tại Hà Nội). Ví dụ, TS. Frank Proschan đã có những buổi thuyết
trình rất hữu ích về các danh hiệu di sản của UNESCO và truyền đạt một cách
chính xác, khách quan tinh thần của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể.
GS.TS. Từ Thị Loan
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc
gia Việt Nam
Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia
(1) Tô Vũ: Âm nhạc Việt Nam truyền
thống và hiện đại, Viện Âm nhạc, H, 2002, tr. 242.
(2) Phỏng vấn GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh, nguyên
Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
(3) Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng, “Hội lễ dân
gian truyền thống trong thời hiện đại”, in trong sách Lễ hội truyền thống trong
đời sống xã hội hiện đại, Nxb. Khoa học Xã hội, H, 1993, tr. 28.
(4) Bùi Quang Thắng: Tổ chức lễ hội như là tổ
chức sự kiện, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 318, tháng 12/2010, tr.28.
(5) Lê Hồng Lý, Đào Thế Đức, Nguyễn Thị Hiền,
Hoàng Cầm: Vai trò của môi trường thực hành văn hóa trong việc bảo tồn
di sản: Bài học từ các dự án bảo tồn di sản cồng chiêng và nhã nhạc, trong
sách Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam đương đại
(trường hợp Hội Gióng). Nxb Văn hóa Thông tin, H, 2012.
TẠI ĐÂY: https://www.tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/bao-ton-di-san-van-hoa-va-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-136999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét