(Trích từ bài Một số đặc điểm và giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống)
Lễ hội truyền thống của dân tộc với những đặc điểm trên đáp ứng một cách thiết thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội.
Đồng thời, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội, nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa, tạo sự chuyển biến nhận thức biết ơn quá khứ, uống nước nhớ nguồn và giáo dục giá trị chân, thiện, mỹ. Văn hóa dân tộc được bảo tồn và hòa vào dòng chảy chung của văn hóa nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp rất độc đáo của nền văn hóa dân tộc, mà trong đó các yếu tố tinh hoa là các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng tiêu biểu và khá bền vững thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc, được bảo tồn, lưu truyền và phát huy cao độ trong đời sống xã hội, trải qua nhiều thời đại lịch sử” (4).
Khái quát lại, lễ hội truyền thống có 5 giá trị cơ bản:
Thứ nhất, lễ hội truyền thống hướng con người tới cội nguồn và truyền thống lịch sử. Con người càng hiện đại thì càng có nhu cầu hướng về cội nguồn. Con người dù ở đâu, thời kỳ nào vẫn luôn phải trả lời câu hỏi: mình đang ở đâu? mình từ đâu tới? khi đến với lễ hội mọi người được trở về quê cũ, thăm lại dấu tích liên quan đến các anh hùng dân tộc, các sự kiện lịch sử, hay những vùng đất văn hóa… qua đó nhận thức được về nguồn cội của mình, tôn kính nguồn cội ấy.
Thứ hai, lễ hội đáp ứng nhu cầu cố kết, biểu dương sức mạnh cộng đồng. Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên nền tảng gắn kết nhất định, trong đó có sự gắn kết về nguồn gốc, có sự gắn kết về nhu cầu đồng cảm. Lễ hội nào cũng là thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội đền Hùng) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ. “Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ, (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa (cộng cảm)... Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng” (5).
Thứ ba, lễ hội thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh khi lễ hội thuộc về tín ngưỡng, tôn giáo. Đời sống tâm linh đôi khi quan trọng không kém đời sống vật chất và “lễ hội góp phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là cuộc đời thứ hai, đó là trạng thái thăng hoa từ đời sống trần tục, hiện hữu” (6).
Thứ tư, lễ hội thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa. Mọi người được hòa mình vào cuộc vui, cuộc chơi. Trong cuộc sống hối hả, những trò chơi dân gian ít có điều kiện để được tổ chức và nhiều khi chúng ta cũng không lưu tâm đến nó, nhưng tham gia lễ hội, mọi người có dịp thăng hoa những giá trị đời sống nội tâm, có điều kiện hòa nhập vào không khí chung, từ đó tạo nên niềm vui chung của cộng đồng trong một làng quê, hay một vùng nào đó.
Thứ năm, lễ hội là môi trường để trao truyền các giá trị văn hóa từ đời này sang đời khác. Mỗi nền văn hóa, phong tục tập quán đều bắt nguồn từ những chuẩn mực giá trị được hình thành từ sâu xa trong lịch sử dân tộc. Dù muốn hay không, mỗi thế hệ tiếp nối đều phải đón nhận sự chi phối từ truyền thống lịch sử của dân tộc mình, trong đó có những tập quán tốt đẹp, những di sản văn hóa mang giá trị to lớn. Qua lễ hội, tính giáo dục cộng đồng, tập thể được mọi người đón nhận với thái độ cởi mở và hồ hởi hơn. Điểm quan trọng nhất trong các lễ hội ở chỗ, mỗi cá nhân tham dự một cách tự nguyện đều cảm thấy mình là thành viên không thể tách rời cộng đồng trong lễ hội ấy. Lễ hội chính là sợi dây gắn liền quá khứ với hiện tại, là bảo tàng sống của văn hóa dân tộc, góp phần khơi dậy sức mạnh tiềm tàng vốn có, tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước
_______________
1. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989.
2. Trần Quốc Vượng, Mùa xuân và lễ hội Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay, số 3-1994.
3. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Quang Lê, Nhận diện bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011.
5, 6. Ngô Đức Thịnh, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010.
Tác giả: Lê Xuân Hồng
Nguồn : Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 411, tháng 9 - 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét