1. Nội dung xã hội trong tác phẩm văn học là gì?
- Theo Al:
"Nội dung xã hội trong văn học đề cập đến những vấn đề, hiện tượng, tư tưởng, quan điểm, và tình cảm của con người trong đời sống xã hội được thể hiện qua các tác phẩm văn học. Nó bao gồm những khía cạnh như các mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội, các vấn đề về giai cấp, đạo đức, chính trị, lịch sử, văn hóa, và những biến đổi của xã hội được phản ánh qua lăng kính của người nghệ sĩ.
Nội dung xã hội trong văn học có thể được chia thành hai loại chính:
Nội dung trực tiếp:
Phản ánh các sự kiện, hiện tượng xã hội một cách rõ ràng, cụ thể, thường thông qua các nhân vật, tình huống, và sự kiện trong tác phẩm.
Nội dung gián tiếp:
Thể hiện qua các vấn đề tư tưởng, tình cảm, quan điểm của tác giả về xã hội, thường được ẩn chứa trong các hình tượng nghệ thuật, biểu tượng, và các yếu tố khác của tác phẩm.
Nội dung xã hội trong văn học không chỉ đơn thuần là sự mô tả, miêu tả hiện thực mà còn là sự lý giải, đánh giá, và định hướng của tác giả đối với xã hội.
Ví dụ:
- Một tác phẩm có thể phản ánh về sự bất công trong xã hội, về những khó khăn của người nghèo, về những mâu thuẫn trong gia đình, hoặc về những vấn đề chính trị, lịch sử.
- Một tác phẩm cũng có thể thể hiện những quan điểm của tác giả về tình yêu, về tình bạn, về lòng yêu nước, hoặc về những giá trị đạo đức truyền thống.
Nội dung xã hội trong văn học có vai trò quan trọng trong việc giúp người đọc hiểu rõ hơn về xã hội, về con người, và về chính bản thân mình. Nó cũng có thể góp phần vào việc thay đổi nhận thức, thái độ, và hành vi của con người đối với các vấn đề xã hội.
(Nguồn: Internet)
2. Nội dung xã hội trong truyện đồng thoại của Võ Quảng
Võ Quảng quan niệm: “Truyện đồng thoại có đủ khả năng phản ánh con người mới, cuộc sống mới…”(1982, tr.75).
Truyện đồng thoại thuộc số những thể loại phản ánh cuộc sống không theo quy luật tả thực. Nó là loại truyện tưởng tượng, sử dụng tưởng tượng để khái quát cuộc sống thông qua việc miêu tả hình tượng theo nguyên tắc kết hợp các mặt tự nhiên và xã hội, loài vật và trẻ em. Nhờ sự kết hợp này mà diện tích nghĩa của hình tượng được nới rộng, người không không chỉ tiếp nhận bức tranh đời sống loài vật mà còn cảm nhận được cuộc sống con người.
Vào những năm chống Mỹ, những người viết như Võ Quảng đứng trước một mối băn khoăn: truyện đồng thoại có phản ánh được hiện thực đời sống đất nước? Sau những suy tư, trăn trở, cuối cùng ông đi đến khẳng định: “Truyện đồng thoại có đủ khả năng phản ánh con người mới, cuộc sống mới…”(Võ Quảng, 1982, tr.75). Chứng thực cho nhận định này là những sáng tác về đề tài chiến tranh và xây dựng CNXH ở miền Bắc: Cái Mai, Chuyến đi thứ hai, Những câu chuyện, Hòn Đá.
Năm 1967, Võ Quảng hoàn thành truyện Cái Mai. Đây là tác phẩm truyện đồng thoại đầu tiên của nhà văn. Truyện khá dài hơi, sử dụng ngôi kể thứ nhất với nhân vật chính của câu chuyện là một cái Mai. Nhân vật sau khi tự giới thiệu về mình “sinh cuối năm 1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ”, với “công việc thường ngày của tôi là đào đất” đã lần lượt kể về những nơi nó đã đi qua, những số phận mà nó bắt gặp. Nào là chuyện gia đình những người nông dân nghèo khó, chuyện lão Ngạt giàu có, chuyện cải cách ruộng đất, chuyện làng quê đổi thay... Chuyện cũ, chuyện mới, chuyện tố khổ, chuyện tri ân (cách mạng) đã được miêu tả kết hợp, song cảm hứng căn bản của tác phẩm vẫn niềm vui về sự đổi đời. Truyện này gần gũi với Cuộc đời chìm nổi của chú Kíp lê của Vũ Cận, xuất bản năm 1960.
Truyện Chuyến đi thứ hai cũng là một tác phẩm nằm trong mạch cảm hứng phản ánh hiện thực thời đại. Từ một câu chuyện dân gian về chú Cóc đi kiện trời, Võ Quảng đã dựa vào đó mà lập được một tứ hay cho thiên truyện của mình. Cóc Tía nhờ đọc sách nhiều mà biết xưa kia cụ Tổ của mình từng đi lên trời và đòi được mưa giúp thiên hạ. Mong ước nối chí tổ tiên, nhân một năm nắng hạn, Cóc Tía quyết định mở chuyến đi thứ hai lên trời. Chuyến đi này rút cục không thành, bởi đường xa vạn dặm, dốc núi cheo leo, một mình đơn độc; vả lại, theo lời Cò Bạch là không cần thiết: “Tôi thường bay qua bay lại vùng này, thấy rõ nhân dân vùng này, trong mấy năm qua đã đắp những đập cao ngăn nước, cho nước chảy vào các ao hồ. Họ lại đào những con mương đủ loại lớn nhỏ, cho nước chảy đến tưới khắp cánh đồng. Ông trời không mưa nhưng họ vẫn có thừa nước để tưới ruộng (...). Họ chẳng còn cần con Cóc gọi mưa! Ông Trời có mưa hay không mưa, cũng chẳng làm sao cả!”. Dưới một hình thức ngôn ngữ có phần khoa trương, câu chuyện rõ ràng không dừng lại ở việc viết về các con vật mà hướng tới con người, ca ngợi sức mạnh của nhân dân, như câu thơ nổi tiếng một thời của Hoàng Trung Thông: “Bàn tay ta làm nên tất cả – Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”! Qua tác phẩm, Võ Quảng đã giới thiệu với các em một cách tự nhiên về hình ảnh nông thôn mới, con người mới làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Cảm hứng này chúng ta còn có thể quan sát được qua truyện Những câu chuyện. Đầu xuân, các loài chim hội tụ về khu rừng và kể cho nhau nghe những chuyện lạ. Chuyện lạ lùng nhất, hấp dẫn nhất không ngoài chuyện về những đổi thay do con người tạo nên. Lời Bồ Các: “Tôi bay khắp đất nước, thấy nhiều biến đổi lạ lùng quá, có lúc chỉ xảy ra trong một đêm (...). Cái cầu, con đường đều do con người làm cả”. Lời Bồ Chao thấy người xây hai cái trụ điện mà cứ ngỡ là cột “chống trời”... Nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc câu chuyện này đã tỏ ra tâm đắc, cho rằng đó là một thứ “thơ mới” rất cần cho các em. Ông viết: “Và theo tôi nghĩ, cái câu chuyện văn xuôi có cột trụ cao thế càng cua đó, ấy mới là thơ mới”(Nguyễn Tuân, 1998, tr.284).
Nhà văn Ngô Quân Miện khi tìm hiểu về truyện đồng thoại Việt Nam 1955 – 1975 đã xếp những truyện như Cái Mai, Chuyến đi thứ hai... vào nhóm “những truyện viết ít nhiều trực tiếp về cuộc sống mới, con người mới”(Ngô Quân Miện, 1982, tr.83). Chúng tôi nghĩ, sự phân chia như vậy là có cơ sở. Sau 1975, loại truyện đồng thoại này rất ít được khai thác. Người viết lại trở về với thế giới hồn nhiên cây cỏ, đời thường, mở rộng biên độ tưởng tượng vốn rất cần thiết với thể truyện đồng thoại này. Cho nên, cùng với những Chim chích lạc rừng (Tô Hoài), Cô Bê 20 (Văn Biển), Chuyện chú Trống choai (Hải Hồ)..., những tác phẩm nói trên của Võ Quảng góp phần tạo nên một nét riêng trong diện mạo thể loại truyện đồng thoại giai đoạn chống Mỹ. Đúng là, hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho truyện đồng thoại nói riêng, văn học thiếu nhi nói chung, lúc bấy giờ ít nhiều đã “bện chặt với văn học người lớn” (http://www.chinawriter.com.cn, ngày 17/6/2008), nâng mình lên hòa hợp với phong trào chung (người lớn).
(Lê Nhật Ký, Từ bước chân Dế Mèn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét