Không biết làm
thế nào hơn là kể lại những suy nghĩ và việc làm của tôi.
Cánh bãi Cơm
Thi bên kia sông Tô Lịch trước cửa đình làng, thuở nhỏ, đối với chúng tôi, bao
trùm một thế giới kì ảo lạ lùng. Hầu như tôi viết đồng thoại hay những truyện
khác cho các em bao giờ trong trí óc tôi cũng thấp thoáng quang cảnh ở đây.
Mùa hè, hoa gạo
rụng đỏ ối, mặt nước sông Tô Lịch lên to, ngập vào tận thềm đá sân đình. Từng
bè sen Nhật có những con chuồn chuồn ớt đỏ cháy chăm chú đậu trên nhánh hoa bèo
phớt tím từ hồ Tây trôi về, không biết còn trôi đến đâu. Sự tích vết thừng trâu
vàng đi tìm mẹ quệt thành sông Tô Lịch càng kéo dài thêm nguồn tưởng tượng mênh
mang theo con sông thần tiên đến tận vùng trời nước liền nhau nào mà trẻ con
chúng tôi gọi là nơi "Ba Bục" đầy bí hiểm.
Trên bãi Cơm
Thi đầu làng có cả một xã hội mà trong đó, trẻ con với mọi loài cây cỏ, chim
muông và những con vật nho nhỏ đã thật quen biết nhau.
Mùa đông tới,
đàn chim hét đen ngòm lặng lẽ bay về nhặt sâu trên những luống rau cải, su hào
bên đồng Vân. Cứ nghe tiếng sáo đá kêu vang, đã biết mùa hè trở lại trên cây gạo
hoa đỏ ối. Con chim chả rình cá bên dòng nước, chập tối lại chui vào ngủ trong
hang vệ sông. Xiến tóc mộc, xiến tóc hoa ở đâu bay tới ăn cỏ cành dướng, cành
đuối. Quả đuối chín vàng mọng mọng bờ rào, con cánh cam liệng nghiêng qua thật
khéo. Bên đầm nước cạn, trong những bụi cây chút chít xanh rờn, những ếch cốm,
những gọng vó và các nàng "nhà trò" vơ vẩn. Đúc dế, bắt châu chấu đi
trốn rét trong khe lá dứa, để chơi, cho chọi nhau chán rồi mang bán từng lồng đế
và châu chấu cho người nuôi gà chọi, nuôi chim họa mi.
Nhiều nữa, nhiều
cái ham mê nữa. Bây giờ chỉ còn nhớ mỗi một việc: những năm ấy, lũ trẻ trong
làng chúng tôi thường lêu lổng nghịch quanh bờ bụi, bãi cỏ ven sông bé nhỏ. Nhớ
mỗi một việc, tức là nhớ lắm.
Tôi viết truyện
Con dế mèn, rồi Dế mèn phiêu lưu kí lần đầu, không rõ năm ấy tôi mười tám hay mười
bảy tuổi. Chỉ nhớ, tôi vừa bước khỏi tuổi thiếu niên, tất cả những trò chơi ở bãi
sông đầu làng của tuổi thơ đã vào thẳng sáng tác tôi. Khi cầm bút, những
"nhân vật" trong truyện không cần phải nghĩ mãi mới ra mà nó đã nằm sẵn
giữa say mê của mình. Sức mạnh những thực tế trực tiếp ấy đã bắt ngay vào nguồn
sáng tác của tôi.
Lúc ấy, phong
trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đương rầm rộ lôi cuốn thanh niên cả nước giác
ngộ chính trị. Làng quê nhỏ bé của tôi cũng sôi nổi trong cơn lốc tư tưởng cách
mạng. Ngay trên bãi nhãn mà năm trước tôi còn đi đúc dế, năm nay là thanh niên,
tôi hăng hái dự những buổi họp lập ái hữu thợ dệt và tham gia đấu tranh chống
thuế, chống đốn bãi nhãn bán lấy tiền cho hương lí chè chén... Sự trải biết của
tuổi thơ ở bãi Cơm Thi đã vào trong tôi cùng với ý thức tư tưởng và hành động của
chúng tôi lúc ấy. Dế Mèn, Dế Trũi đều được phú cho những đường nét tư tưởng xã
hội của thời đại tôi đương sống.
Lý tưởng say mê
của Dế Mèn là được đi khắp nơi, hô hào mọi loài cùng nhau xây dựng thế giới đại
đồng - danh từ thời ấy rất thịnh hành, ai cũng thích nói. Thế giới đại đồng chỉ
có công bằng, không có áp bức và chiến tranh. Đó là tư tưởng của tôi, cũng như
tư tưởng phần đông lớp tiểu tư sản trí thức buổi đầu giác ngộ hay mơ ước vẻ đẹp
của lí tưởng.
Dế Mèn thì
hăng, nhưng "ông anh cả và ông anh hai" của Dế Mèn lại nhút nhát. Cô
Nhà Trò và anh chàng Kim Kìm Kim hèn đớn quá. Cậu công tử bột Chim Chả nom có mẽ
nhưng đầu óc rỗng tuếch. Tiên sinh Xiến Tóc là một kiểu người như một số bè bạn
tôi, vừa yêu đời vừa chán đời, vừa giác ngộ cách mạng vừa lãng mạn phiêu lưu, vừa
đạo mạo vừa trẻ con, có khi lố lăng lại làm ra vẻ ta đây... Anh em kết nghĩa vườn
đào như Mèn và Trũi là những con người có lí tưởng, sẵn sàng quên mình vì bạn,
vì nghĩa lớn.
Viết đồng thoại
Dế mèn phiêu lưu kí, lúc ấy, tôi
không biết như bây giờ phân tích nội dung cũng như cách viết thể loại đó. Tôi
chỉ viết thực tế quanh tôi và tư tưởng lớp thanh niên như tôi. Mọi nhận xét và
thói quen cũng như phong tục của con người, tôi đều đem dùng cho việc xây dựng
những "nhân vật" như trên.
Tôi không viết
vì bâng quơ, vì muốn làm cho lạ, hoặc không vì lẽ gì hết (lối nghĩ lập dị của một
số người viết thời đó).
Tôi muốn đem
vào đồng thoại một nội dung xã hội. Những truyện Đám cưới chuột, Chuột thành
phố, Ngọn cờ lau... cũng thế.
***
Bạn đọc nhỏ tuổi
hay người lớn đọc đồng thoại?
Những tác phẩm
viết cho lứa tuổi thơ nổi tiếng trong nước và thế giới đã trả lời câu hỏi ấy. Một
sáng tác hay cho các em cũng làm cho cả người lớn thấy hay. Các em và người lớn
đều thu nhận được ở tác phẩm ấy những thông cảm cho mỗi lứa tuổi khác nhau, mà người
lớn không cần phải giả làm trẻ em mới hiểu được. Người lớn vốn đã thích thú đọc
rất hào hứng những tác phẩm tưởng tượng còn "hoang đường" hơn truyện
đồng thoại kia mà.
Trên rạp chèo,
diễn viên chỉ dùng điệu bộ diễn tả mở cửa, trèo tường - toàn khoa tay trong
không khí, mà người xem thấy như thật, hơn thật. Tuồng diễn đến chỗ Dự Nhượng dồn
căm thù vào chiếc gậy quật lên tấm áo long bào treo trên cây mà vua Triệu Tương
Tử đứng đằng kia bỗng hộc máu lăn ra chết. Người xem không khó chịu vì vô lý,
mà lại xúc động đến rợn người. Xem tuồng Sơn
Hậu, thấy chuyện đời Tề: Khương Linh Tá đã bị Tạ Ôn Đình chém đứt đầu mà
Khương Linh Tá còn tự tay xách đầu chắp lên cổ, chạy bao nhiêu dặm đường báo
cho Đổng Kim Lân biết tin mình bị sát hại. Ai cũng cảm kích về tình bạn thiêng
liêng của Khương Linh Tá, Đổng Kim Lân, và việc xách đầu tìm bạn tưởng như thật.
Không phải chỉ
có các em nhỏ mới coi là tự nhiên việc cái ghế biết nói, con bê đánh bạn với
người, mà với người đọc, người xem nói chung, khi nghệ thuật đã đạt tới trình độ
khắc họa được nội dung và tâm trạng thì cái ghế cười khanh khách, con mèo thủ
thỉ trò chuyện, ông trăng biết nói cũng gợi nhiều điều nghĩ ngợi đúng đắn sâu
xa cho bất cứ ai.
Ngày ấy, tôi
không cắt nghĩa được cách tôi viết. Nhưng dường như về sau tôi vẫn phát triển
viết theo lối ấy. Tất nhiên, biết phân tích và chủ động hơn, có thể vỡ vạc ra
được mối tư tưởng và phương pháp sáng tác.
Em Mèo hối hận
vì lười lao động. Chim biết đi tham quan nhà máy. Hai chú gà ri cãi nhau...
Trong câu chuyện
dành cho lứa tuổi ngồi trò chuyện với cái gốc cây, với con mèo, với nhành hoa
cũng thích như với bạn, đều do nguồn gốc một sự thật của đời sống và của tư tưởng
nhất định.
***
Bây giờ tôi vẫn
viết đồng thoại.
Xin chép lại một
truyện nhỏ.
Truyện Đàn chim gáy:
Ông bảo tôi:
Cháu ạ, cháu để
ý mà xem. Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng mười chim gáy về theo đàn.
Con chim gáy hiền
lành, béo nục. Đôi mắt nâu trầm ngâm ngơ ngác nhìn xa. Cái bụng mịn mượt, cổ
quàng chiếc "tạp dề" công nhân đầy hạt cườm lấp lánh biêng biếc. Chàng
chim gáy nào giọng gáy càng trong càng dài, mỗi mùa càng được vinh dự đeo thêm
vòng cườm đẹp quanh cổ.
Khi ngoài đồng
đã đông người gặt thì chim gáy về, bay vần quanh trên các ngọn tre. Rồi từng
đàn sà xuống những thửa ruộng vừa gặt quang.
Con mái xuống
trước, cái đuôi lái lượn xòe như múa.
Con đực còn nán
lại trong bờ tre, cất tiếng gáy thêm một thôi dài. Xong rồi anh chàng mới thủng
thỉnh bước ra, ưỡn cái ngực đầy cườm biếc lượn nhẹ theo.
Chim gáy nhặt
thóc rụng. Chim gáy tha thẩn, cặm cụi sau người đi mót lúa.
Tôi rất thích
chim gáy. Con chim gáy phúc hậu và chăm chỉ, con chim gáy mơ màng, con chim no ấm
của mùa gặt hái tháng mười. Rồi tháng mười qua. Không trông thấy chim gáy nữa.
Sớm sớm, chỉ
nghe tiếng đối đáp cúc cu cu... dịu dàng từ vườn xa vọng lại. Tiếng "cúc
cu" giục bác thợ cày, tiếng "cúc cu" nhắc chú học trò đi học
đúng giờ.
Một sáng kia,
tôi trông ra, bỗng thấy con nông giang đầy ắp nước qua đầu làng. Đấy là nước trạm
bơm tháo về cho các cánh đồng sắp sửa làm mùa.
Lại có hàng đàn
chim gáy cắn đuôi nhau, lượn vòng, soi gương trên dòng nước sáng. Tôi về hỏi
ông:
- Bây giờ đến
tháng mười chưa ông nhỉ?
- Bây giờ là
tháng tư.
- Thế sao chim
gáy đã ra ăn đàn?
Ông tôi cười:
- Cháu ơi! Từ
xưa đến nay, cứ tháng mười thì chim gáy theo mùa ra ăn đàn. Nhưng từ khi có con
nông giang đem nước về, đồng ta cày cấy được nhiều vụ, thì con chim cũng đổi
tính, nó theo đàn ra ăn quanh năm. Cháu để ý mà xem. Tôi đứng nhìn đàn chim
gáy.
Con chim béo mượt,
những con chim no ấm của mùa gặt hái quanh năm.
(1969)
Viết Đàn chim gáy, tôi muốn vẽ bức tranh làng
xóm đồng quê cho các em xem.
Nông thôn ngày
nay đã khác trước. Những công cuộc làm ăn đương thay đổi cả đồng ruộng và đời sống.
Nhưng tôi không
muốn trình bày sáng tác của tôi như những câu tôi vừa viết. Tôi tìm cách biểu
hiện cho có việc, có ý nghĩ.
Có phải tư tưởng
cũng như kĩ thuật sáng tạo chỉ bắt nguồn từ một ý muốn chủ quan hoặc do cảm hứng
tự nhiên? Không phải. Cả đến ý nghĩ cũng có quá trình đời sống của ý nghĩ. Nếu
không, chỉ là tư tưởng trên giấy.
Hồi đó, mới bắt
đầu phong trào đổi công, hợp tác hóa. Tôi đi tham gia phong trào ở Thái Bình.
Tháng mười, đồng ruộng Thái Bình vàng óng, trùm lên cả xóm làng. Giữa cảnh mùa
màng rực rỡ, người Thái Bình vừa gặt hái vừa xây dựng lề lối làm ăn tập thể.
Ngày mùa trong
làng thật ấm áp, sinh hoạt sôi nổi, khẩn trương.
(Ở đây chỉ kể
riêng những điều cụ thể đã giúp tôi viết Đàn
chim gáy).
Tôi hay chú ý đến
chim gáy. Tất nhiên, nhìn ngắm con chim gáy, chỉ từng lát, từng thoáng chứ chẳng
phải việc làm mê mải ngày này sang ngày khác của chúng tôi, như đi gặt, họp
xóm, cày ải, xếp ải... Nhưng, dù chỉ lặt vặt một lát, một thoáng, tôi vẫn thích
thú, tỉ mỉ và cố gắng giữ lối quan sát, nhận xét dai dẳng, lặp đi lặp lại, cả đối
với con chim, con cá tình cờ thấy - mặc dầu như chỉ để ý mà chơi.
Tôi chép ra đây
những lần ghi chớp nhoáng về chim gáy trong sổ tay của tôi. Xin nhắc lại: ghi
chép không thay trí nhớ, ghi chép chỉ để giúp trí nhớ. Lắm việc hệ trọng, chẳng
ghi nửa chữ mà nhớ suốt đời. Ở đây, ghi lại đôi nét về chim gáy với xã hội nông
thôn quanh chim gáy, để thấy được tư tưởng, chủ đề, nhân vật, dần dần thành
hình thế nào trong lúc mình ngắm, mình nghĩ.
12/11-... Buổi
chiều ngày mùa. Ánh nắng vàng chóe. Rất nhẹ, nhuộm nghiêng ngọn tre. Con chim
gáy béo trắng, yếm và cổ cườm đen nhánh, đương gáy đáp tiếng bạn ở bụi tre đằng
kia. Con chim, con gà ngày mùa béo mầm.
21/11- ... Mây
phía bờ đê Diêm Điền đùn lên. Tơi tả phất phơ mưa. Mỗi quãng, hửng nắng nho nhỏ.
Nghe chim gáy vỗ cánh và xa xa tiếng gáy trong bụi tre. Có phải con chim gáy mỡ
màng và tiếng gáy đầm ấm kia là dấu hiệu ngày mùa?
15/12- ... Ngày
gặt hái, ngày vui của người trong làng. Con chim gáy trong giọng hơn, con gà,
con chó mỡ màng hơn.
3/1- ... Trong
ánh nắng hồng điều, đôi chim gáy xuống nhặt thóc trong khoảng rộng trống. Béo mầm,
yếm trắng phau, cườm lung linh biêng biếc. Đuôi lượn xòe như mở quạt, trước khi
đậu. Chim gáy ra ăn: dấu hiệu mùa màng tốt lành. Con chim gáy xòe đuôi liệng xuống
ruộng. Nằng nặng một cách đèm đẹp.
5/1- ... Con
chim gáy vỗ cánh bạch bạch. Tiếng nặng ấm no, đầy đủ, không khó chịu. Đầu xóm,
cuối xóm đầy tiếng chim gáy gọi bạn. Ngày mùa và chim gáy đi đôi...
Thật rõ: trong
dòng ghi chép ngắn ngủi nói cả chi tiết, cả tư tưởng. Nếu không thế, tưởng chẳng
có cách nào viết nổi.
Còn phải thêm về
tình cảm. Có tình với thực tế là đương nhiên. Sáng tạo nào cũng do công trình tổng
hợp mọi trải biết và tình cảm trong cả đời mình.
Khi nhỏ ở trong
làng, tôi cũng hay chơi chim gáy. Nhà nào cũng thường có chiếc lồng quả vả, lá
thiên tuế bịt kín, trong nuôi một con gáy đực. Hồi ấy, con chim gáy cũng giá trị
như con gà trống. Gà trống báo giờ đêm hôm, còn chim gáy làm cái đồng hồ ban
ngày. Hồi ấy, chưa mấy nhà trong làng có đồng hồ.
Trong kí ức
tôi, chim gáy đã trở thành kỉ niệm. Khi nhớ lại làng quê thì có hình ảnh nó. Cuộc
sống thiết tha nào cũng vào kỉ niệm, và chỉ đến khi có được kỉ niệm, mới thực
có tài liệu cho sáng tạo. Vốn sống của người viết không thể là cái gì nhặt nhạnh,
xẻo xén ở đâu. Kể một chi tiết như bịa đặt mà lại không phải là bịa đặt: viết con
chim gáy quàng chiếc "tạp đề" công nhân hạt cườm. Không phải chỉ là một
tưởng tượng. Mà thật, con chim đực, mỗi năm, tiếng gáy già dặn dài ra thêm một
tiếng "cụ" thì quanh cổ cũng mọc thêm vòng cườm.
Lại còn phải kể
đến chuyện thân thiết giữa người viết với người đọc, dù chỉ trong mẩu chuyện nhỏ
ấy. Khi tôi đăng truyện Đàn chim gáy ở
báo Văn Nghệ, ít lâu sau, một bạn đọc viết thư cho tôi bảo: chim gáy ra ăn
không phải lúc nào cũng đi đàn, mà tháng năm mùa sinh nở, gáy chỉ ăn đôi, tháng
mười chim gáy mới vừa đi đôi vừa đi đàn.
Cảm ơn người bạn
đọc quý mến ở Thanh Hóa. Sáng tác của tôi đã được bạn săn sóc, của giúp đỡ.
Đã đành, tác phẩm
hay sẽ trở nên tác phẩm của chung mọi người. Nhưng viết cho các em, trước nhất,
phải là của các em. Ví dụ: chức năng giáo dục ở một sáng tác cho các em là quan
trọng bậc nhất, không thể bàn cãi.
Nhưng tôi muốn
nói mặt khác của vấn đề nội dung. Theo ý tôi, bất kì thể loại nào, viết cho các
em cần đẹp, vui. Như vậy, đồng thoại là loại truyện có nội dung tung hoành về
những mặt đó. Vốn đồng thoại đã lạ, càng hấp dẫn, càng gợi cảm, càng đẹp, càng
thơ.
Tuổi thơ có trí
tưởng tượng không bờ bến. Vì thế, bản thân sáng tác cho các em, như đồng thoại,
mang những yếu tố giúp sự phát triển khả năng đó của các em. Đến hôm nay, tôi vẫn
viết bao nhiêu đồng thoại một cách như kiểu đã viết về Dế mèn, về Chim gáy.
Tư tưởng và
tình cảm của mình đối với thực tế ấy như một. Tôi không nghĩ đồng thoại là loại
truyện tư tưởng lung tung, không cần thực tế khách quan mà chỉ có một ý chủ
quan. Tôi chưa viết một đồng thoại nào không do tư tưởng và đời sống của mình
và xung quanh, dù câu chuyện kể ra có vẻ thật hoang đường.
Mùa xuân vừa
qua, tôi có dịp đến một vùng Trung Á.
Tôi ăn tết
Nguyên Đán trong làng Mèo (Mông) trên Sùng Đô ở Nghĩa Lộ, vừa xuống núi thì bay
đi.
Cái cảm tưởng
mùa xuân theo chân qua trên nửa trái đất, lạ lùng xiết bao.
Tôi gặp nhiều
người nước ngoài. Các bạn ấy, ai cũng thiết tha hỏi mọi điều về Việt Nam. Một
nhà văn nước Pakistan nói: "Nhân dân Pakistan, ở cả các nơi hẻo lánh cũng
thuộc tin tức Việt Nam. Ai cũng đọc tin Việt Nam trên báo trước". Một nhà
văn Tích Lan kêu lên: "Ôi! Việt Nam! Việt Nam!". Một nhà văn Miến Điện
ôm tôi, nói: "Cuộc chiến đấu chống Mỹ của chúng ta".
Trên triền núi
Cô-ca hay dọc sông Ku-ra, người các dân tộc ở Uzbekistan, ở Gruzia, đâu đâu cũng nói về những sự
tích chống Mỹ của Việt Nam. Tôi thèm viết một chút gì biểu hiện tinh thần đoàn
kết hữu nghị lớn lao ấy cho các bạn đọc nhỏ.
Nhật kí dọc đường,
những ghi chép này là mở đầu, bày tỏ cơ sở cho mong muốn sáng tác của tôi.
... Hồng những
vườn đào. Vẫn hoa đào nở như trên Sùng Đô. Nhưng ở đây hoa mận còn nhiều hơn.
Cánh dày và trắng phau. Nhiều dấu vết văn minh cũ châu Á, châu Phi gặp gỡ ở
Sa-mác-can.
Trước các ngôi
mộ cổ, những cây dâu cổ thụ.
… Bồ nông bay
lượn tổ này sang tổ khác, cánh xòe tròn xoe, như Tô Đông Pha đã tả hạc bay. Chỉ
thêm chi tiết nhìn thấy là khi bay, cả mình bồ nông làm động tác cuồn cuộn rợn
sóng lông lên.
Những cánh đồng
bông đã làm đất xong. Máy gieo hạt lùi lũi bò trên mặt đồng phẳng lặng.
Thật hào hứng
trước tình cảm lớn của thế giới đối với Việt Nam.
Cảm ơn đất nước
quê hương đã cho tôi cơ hội có được hào hứng ấy. Ít lâu sau, về ngồi trên hồ
Tây, tôi viết một truyện nhỏ.
Truyện Chú bồ nông ở Sa-mác-can.
Mùa xuân năm ấy,
tôi có việc đi qua thành phố Sa-mác-can, trên con đường Lụa ngày xưa, từ châu Á
sang châu Âu.
Thành phố
Sa-mác-can, có những cụ già U-dơ-bếch, áo bông dài, mũ nồi đen trắng, râu tóc
như bông mà mắt vẫn lay láy tinh tường. Bên gốc cây dâu cong queo kì quái, trên
chiếc phản mộc gỗ thông chân cao lênh khênh, các cụ ngồi nhấm nháp bát nước chè
xanh đậm, ngắm chim bồ nông bay lượn và hát từng bài hát, tiếng rập rờn như gió
thổi.
Dưới những vòm
cửa cuốn vào chợ cổ Sa-mác-can giữa phố, người đi cuồn cuộn. Trên nóc chợ, những
hốc đá vòm cửa, chỉ ngang đầu người, có đông vui một xã hội loài chim.
Con bồ nông nằm
trong ổ thò ra một mỏm đầu bơ phờ như đầu ngỗng con. Hai mắt hấp háy, nửa ngủ nửa
thức.
Chốc chốc, một
chàng bồ nông bỗng đứng thẳng khoeo lên, thong thả bay.
Trên cao, họ nhà
chim bay thăm hỏi, trò chuyện, cũng như người ta tấp nập dưới đường phố.
Hoa li-la lấm tấm
tím nhạt đầy sàn. Hoa đào rực rỡ đến chân trời. Mùa xuân Sa-mác-can bâng khuâng
ra đến những bờ thành đất, những bóng lâu đài, những cây dâu già thân xù xì một
ôm, những cây đề nhú mầm xanh nõn, những nông trang ven thành đang làm đất gieo
bông, có chiếc máy bừa hăm hở, lùi lũi ngày đêm kéo công việc trên cánh đồng phẳng
lặng.
Những con bồ
nông vẫn thong thả bay quanh các mái lầu. Đôi cánh xô lên tròn xoe như vòng bánh
xe quay giữa trời xuân. Tôi nhớ ra chưa bao giờ thấy bồ nông nằm trong tổ như ở
đây. Ở nước ta, chỉ thấy vào mùa đông bồ nông đứng trên những cánh đồng sâu.
Trên những cánh
đồng bờ biển Thụy Anh, một trời một nước có con bồ nông, cao gồ hai cánh vai, lặng
im, thật lặng im. Nhưng chính là cả một công việc chờ đợi chăm chú đương tập
trung vào cặp mỏ dài nghêu, chúc xuống: con cá hấc lờ sắp lượn tới.
Tôi - Chào chú
bồ nông.
Bồ nông - Chào
khách quý đến chơi thành phố cổ. Ngày xuân Sa-mác-can chúng tôi có đẹp chút nào
không?
Tôi - Đẹp lắm.
Bồ nông đã được xem bao nhiêu mùa xuân đẹp thế này rồi?
Bồ nông - Không
nhớ.
Tôi - Năm nào
cũng chơi xuân trên thành phố như năm nay à?
Bồ nông - Không.
Tôi - Chú còn
đi ăn tết ở những đâu?
Bồ nông - Nhiều.
Tôi - Nhưng chắc
chưa tới biển Đông?
Bồ nông - Tới rồi.
Tôi - Chú đã đến Việt Nam chưa?
Bồ nông - Rồi.
Tôi - Thật đấy
ư?
Bồ nông - Ai
trên trái đất bây giờ mà không muốn đến đất nước Việt Nam anh hùng!
Tôi - Bồ nông
đã tới quê tôi?
Bồ nông - Mùa
đông vừa rồi tôi kiếm ăn ở cánh đồng bờ biển Thụy Anh. Tôi đã thăm trường Thụy
Dân.
Tôi - Ôi chao!
Bồ nông - Tôi
đã được thấy các cánh đồng, các triền núi, các thành phố Việt Nam đứng lên bắn
máy bay Mỹ trả thù cho các cháu ở Thụy Dân.
Tôi - Chú Bồ
nông!
Bồ nông - Tôi vừa
mới trở về Sa-mác-can. Tôi bay dọc bờ biển Đông, sang Ấn Độ Dương, tạt vào
Trung Á lên đây. Qua bao nhiêu nước, tôi không biết. Phong cảnh thì chẳng có
biên giới. Nước nào cũng sông, cũng rừng núi, cũng cánh đồng, thành phố và làng
mạc. Nhưng bay qua đâu cũng nghe người ta nói một câu: “Mỹ thua Việt Nam đến
nơi rồi". Chắc anh vừa từ Việt Nam tới?
Tôi - Phải.
Tôi xúc động
không nói nên lời.
Bạn ơi! Có khi
nào bạn thấy mùa đông đưa những đàn bồ nông về cánh đồng sâu ở quê ta thì bạn cứ
tưởng ra rằng rồi cũng có ngày bạn sẽ gặp lại đàn bồ nông ấy ngày xuân đậu trên
nóc thành phố cổ Sa-mác-can. Phần tôi, tôi đã biết như vậy.
... Con chim bồ
nông giang hồ, trời lạnh thì xuống phương nam, khi nắng ấm, lại trở về miền bắc
trái đất.
(1968)
Sau cùng, còn
có thể có vấn đề xây dựng nhân vật, truyện và chữ nghĩa. Kinh nghiệm tả dế mèn
cho sinh động; phân tích cách nghĩ về các nhân vật ông và cháu, con nông giang;
tại sao có cuộc trò chuyện giữa chim và người nghĩ thế nào lại dính cánh đồng
Thụy Anh và tội ác của Mỹ bom phá trường Thụy Dân với thành phố cổ Sa-mác-can;
viết cho vui cho đẹp, cho thơ thì viết ra sao...
Nghĩ đi nghĩ lại,
thật khó. Nhưng có lẽ những điều tôi vừa trình bày đã đụng chạm gần hết những vấn
đề này.
Tư tưởng và vốn
sống mạnh mẽ, phong phú hay là tư tưởng và vốn sống yếu đuối, hời hợt quyết định
cái hay hay dở của chữ nghĩa, của truyện,
của nhân vật, của chủ đề cùng vớ những "bí quyết" sáng tạo.
TÔ HOÀI
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10/1968.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét