Thứ Tư, 9 tháng 3, 2022

CÂU ĐỐ DÂN GIAN







1. Khái niệm

Nằm trong hệ thống thơ ca dân gian, câu đô tồn tại dưới hình thức lời hát hoặc lời nói có vần điệu, dùng hình ảnh ẩn dụ để thử tài liên tưởng và suy đoán của người nghe.

Mục đích chính của câu đố tất nhiên là để đố. Theo các nhà khoa học, câu đố có nguồn gốc sâu xa từ tập tục kiêng kỵ (tabu), không gọi đối tượng bằng tên tục của nó, mà nói né, nói tránh bằng cách mượn sự vật khác hoặc lấy một vài đặc điểm nào đó để gián tiếp nói về đối tượng. Đó cũng là cách nói chệch, nói bóng thông qua ký hiệu, biểu tượng làm cho đối tượng không hiển hiện cụ thể, chính xác mà ẩn ngầm. Hiện nay câu đố còn tồn tại hai chức năng: đố để thi tài và đố để giải trí.

Với hai chức năng này, câu đố thuộc thể loại mà trẻ em yêu thích.

2. Đặc điểm

Đặc điểm hàng đầu của câu đố là hoạt động liên tưởng. Tất nhiên liên tưởng của câu đố mang tính đặc thù khác với liên tưởng nghệ thuật nói chung.

Trong giáo trình “Những đặc điểm của thi pháp của các thể loại văn học dân gian”, Đỗ Bình Trị có tìm ra sự khác nhau giữa ẩn dụ câu đố và ẩn dụ văn học: “Vì mục đích của ẩn dụ câu đố là để … đánh đố, cho nên nó phải lắt léo, khó hiểu … Ngược lại, ẩn dụ văn học cần phải dễ hiểu, vì mục đích của nó là mô tả hiện tượng một cách chính xác và rõ ràng về mặt nghệ thuật” [5, tr168]. Thực chất không có loại ẩn dụ nào cũng đều “rõ ràng”, “chính xác”và “dễ hiểu” cả. Ẩn dụ vốn là hoạt động liên tưởng mang tính lệch chuẩn. Từ đối tượng A liên tưởng sang đối tượng B bao giờ cũng là quan hệ khác loại, không thể chính xác về mặt logic. Có điều liên tưởng câu đố và liên tưởng nghệ thuật nói chung khác nhau ở cơ chế của chúng. Liên tưởng nghệ thuật là hoạt động cảm tính, còn liên tưởng câu đố là hoạt động của lý tính.

Liên tưởng nghệ thuật không nhằm mục đích đánh đố mà ngầm hiểu. Hình ảnh biểu hiện qua bề mặt ngôn từ được biểu đạt qua những ký hiệu như những mã văn hóa có định hướng cho việc giải mã. Chẳng hạn:

Thuyền về thuyền nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

Quan hệ “thuyền – bến” tất yếu gợi đến sự nhớ nhung thề hẹn của đôi trai gái yêu nhau. Ngay cả đoạn thơ khó nhất của Hàn Mạc Tử , nếu nhạy cảm sẽ nhận ra đối tượng ngầm ẩn:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Những cặp quan hệ đối lập: gió – mây, nước – hoa, thuyền – bến, sông – trăng được miêu tả trong bài thơ chắc chắn hàm ẩn một tình duyên lỡ làng, tan vỡ, chưa hội ngộ đã phân ly. Muốn giải mã một ẩn dụ nghệ thuật cần có vốn liếng văn hóa thẩm mỹ. Ẩn dụ nghệ thuật chỉ nhằm mục đích biểu đạt sâu sắc thần hồn của đối tượng và chuyển tải nội dung tư tưởng, tình cảm kín đáo tinh tế hơn.

Trong khi đó, liên tưởng của câu đố, không dễ ngầm hiểu mà phải có trí thông minh để giải đố. Hình ảnh biểu hiện qua bề mặt ngôn từ được biểu đạt qua những kí hiệu có tính chất đánh lạc hướng. Chẳng hạn:

Có mặt mà chẳng có mồm

Có hai bên má xồm xồm những lông.

Các tín hiệu “mặt”, “mồm”, “má”, “lông” là đặc điểm của một đối tượng nào đó khá mơ hồ. Phải là một vật sống, nhưng đó là con vật hay con người rất khó xác định.

Tính lạc hướng trong liên tưởng câu đố dẫn đến yếu tố bất ngờ trong phần giải đố. Ở câu đố trên, chẳng vât cũng chẳng người mà đó là đường cái quan! Người giải đố đưa ra nhiều đáp án để rồi rốt cuộc cảm thấy chưng hửng vì suy đoán nhầm.

Muốn giải mã một ẩn dụ của câu đố không cần phải có vốn liếng văn hóa thẩm mỹ như ẩn dụ nghệ thuật mà phải kết hợp khả năng liên tưởng và phương pháp lựa chọn – loại trừ. Liên tưởng càng rộng mở ra nhiều đối tượng xác suất lựa chọn – loại trừ càng dễ đi đến đích. Tất nhiên trong câu đố ngoài phần chính còn có phần hỏi phụ: là cái gì, là con gì … cho phép ta xác định loài giống của đối tượng. Nhưng trong trăm ngàn sự vật, hiện tượng nằm trong loài, giống ấy xác định ra một đối tượng không phải dễ. Thường câu đố lạ đưa ra người bị đố bí hơn là giải được câu đố. Có thế, câu đố mới trở nên thú vị.

Cái thú vị của câu đố là người bị đố được dịp mở mang trí liên tưởng của mình và kết thúc câu đố là một trận cười sảng khoái vì một cú lừa trí tuệ.

Tính lạc hướng, bất ngờ và thú vị của câu đố do hình thái cấu trúc đặc biệt của nó.

Trước tiên là khoảng cách liên tưởng giữa hình tượng hiển hiện (A) và đối tượng tiềm ẩn (B).

Rất ít khi hình tượng hiển hiện và đối tượng tiềm ẩn cùng giống, cùng loài (liên tưởng đồng loại). Chỉ có một số trường hợp người đố không muốn thách thức người bị đố:

Con chi mào đỏ, lông mượt như tơ

Sáng sớm tinh mơ gọi người ta dậy

(Là con gì?)

Các kí hiệu của A: mào đỏ, lông tơ, gọi người buổi sáng với đối tượng tiềm ẩn B – con gà khá trùng khít. Diện liên tưởng hẹp, giữa A và B không có khoảng cách. Cũng như thế:

Con gì ăn no

Bụng to mắt híp

Nằm thở phì phò

(Là con gì?)

Một bài miêu tả tái hiện đúng hơn là câu đố. Khái niệm “con lợn” được giấu đi sau những đặc điểm rõ ràng của nó.

Đèn gì không thắp trong nhà

Thắp ngoài biển lớn từ xa đợi tàu

(Là đèn gì?)

Đèn không thắp trong nhà, thắp ngoài biển hẳn nhiên là đèn biển. Cách đố này không có liên tưởng mà chẳng qua chỉ hỏi về khái niệm. Loại câu đố này chẳng có gì thú vị vì nó là cái hiển nhiên không có yếu tố bất ngờ.

Thường câu đố, đúng nghĩa của nó, giữa A và B luôn có một khoảng cách nhất định về giống loài (Liên tưởng khác loại).

A hiển hiện như một con vật mà B tiềm ẩn lại là đồ vật.

Mình tròn trùng trục

Đuôi dài lê thê

Khắp chợ cùng quê

Đâu đâu cũng có

(Cái gáo)

Một đàn cò trắng phau phau

Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm

(Chén bát)

Ngược lại, A hiển hiện là một đồ vật mà B tiềm ẩn lại là con vật hay bộ phận của con vật:

Bốn cây cột

Hai đinh sắt

Một cái đòng đưa

Một cái ngúc ngoắc

(Con voi)

Một chổi mà quét hai hè

Quét đi quét lại, lại đè lỗ trôn

(Đuôi trâu)

A biểu hiện là con người, nhưng B tiềm ẩn là đồ vật, con vật hay một sự việc nào đó:

Con đóng khố, bố cởi truồng

(Cây tre)

Còn duyên đánh phấn phơi màu

Hết duyên má hóp răng vàng phơi khô

(Cây bắp ngô)

Một mẹ sinh được vạn con

Rạng ngày chết hết, chỉ còn một cha

Mặt mẹ tươi đẹp như hoa

Mặt cha nhăn nhó chẳng ma nào nhìn

(Trăng, Sao, Mặt trời)

Loại này phổ biến nhất và hay nhất trong kho tàng câu đố Việt nam. Phép ẩn dụ để đố này có khả năng chuyển sang nhân cách hóa trong liên tưởng nghệ thuật. Đằng sau một lời giải đố còn dư âm về cảm xúc, số phận con người. Nhiều câu đố loại này, nếu không để đố, nó hành chức như một bài ca dao. Câu đố về cái bắp ngô trên kia có khác gì bài ca dao than thở thân phận người con gái:

Còn duyên kẻ đón người đưa

Hết duyên đi sớm về trưa một mình.

Câu đố về cái nón:

Đi thì ăn trốc ngồi trên

Về nhà len lén đứng bên xó hè

Cứ như mỉa mai một anh chồng sợ vợ. Có lẽ là ông quan, ra giữa làng ung dung “ăn trốc ngồi trên”, về nhà “len lén” thậm thụt bởi sợ oai bà.

Câu đố về con ruồi thì rõ ràng có chủ đích mách qué bọn vua chúa phong kiến:

Bằng hạt đỗ ăn cỗ với vua

Khoảng cách giữa A, hình ảnh hiển hiện và B đối tượng tiềm ẩn càng xa, câu đố càng khó đoán và cuộc chơi càng thú vị. Thường hình ảnh hiển hiện là cái kỳ dị, quái đản, nhưng đối tượng tiềm ẩn lại đơn giản:

Mình rồng, đuôi phượng cánh tiên

Một trăm con mắt ngó nghiêng lên trời.

A với “mình rồng”, “đuôi phượng”, “cánh tiên” và “một trăm con mắt” không hẳn trùng khít với B ở tất cả các đặc điểm của quả dứa. Nó chỉ xác lập với sự tương quan tương đối.

Cái kỳ dị của hình ảnh hiển hiện có thể là sự chắp vá hoặc cường điệu, hoặc bóp méo một cách ngộ nghĩnh:

Xương sườn, xương sống

Nuốt trộng người ta

Ăn vô nhả ra

Người ta còn sống

(Cái nhà)

Ăn đằng bụng, ỉa đằng lưng

Động mó đến sừng thì vãi cứt ra

(Cái bào)

Không ăn mà mổ cuống cuồng

Đục một cái chuồng nhốt lấy cái đuôi.

(Chày giã gạo)

Câu đố thú vị với trẻ em bởi lối cấu trúc hình tượng độc đáo ấy. Đố không chỉ để thách thức trí tuệ mà còn để gây cười. Mỗi hình tượng trong câu đố đều ít nhiều mang tính chất hài hước, trào phúng. Tiếng cười trong câu đố lành mạnh, hồn nhiên.

Câu đố tiềm tàng trong nó những ý nghĩa sâu xa đối với đời sống tâm hồn con trẻ. Một mặt, trong lúc chơi đùa giải trí hồn nhiên, các em có điều kiện giao tiếp với thế giới xung quanh, giao tiếp bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình. Vạn vật từ thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá đến các bộ phận, các hoạt động của con người không còn ở trạng thái tĩnh tại nữa mà sống động bằng cái hồn nhiên ngộ nghĩnh nhất của nó. Mặt khác, trong khi giao tiếp với thế giới xung quanh, trí liên tưởng của các em mở ra. Từ hình ảnh gợi lên trong câu đố, các em tìm thấy hàng loạt các đối tượng khác nhau trong đời sống qua mối quan hệ bản chất nhất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng xa cách nhau, nhưng ít nhất cũng có một vài đặc điểm chung nhất. Vì thế, câu đố hướng vào cái cụ thể trực quan mà vẫn vươn đến sự trừu tượng khái quát nhất.

Nguồn: Văn học cho thiếu nhi (ĐH Quy Nhơn, 2003).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét