1. Văn học thiếu nhi - một
quá trình phát triển
1.1. Sự ra đời của văn học thiếu nhi Theo quan niệm
chung, những sáng tác văn học có mục đích phục vụ cho lớp độc giả thuộc lứa tuổi
học sinh thì được gọi là “văn học thiếu nhi”. Khái niệm “văn học thiếu nhi” có
nghĩa là “văn học dành cho thiếu nhi”, bất luận tác giả của những sáng tác văn
học đó là thiếu nhi hay người lớn. Những nước nói tiếng Anh gọi loại văn học
này là “literature for children” hay “chil- drens literature”; những nước nói
tiếng Pháp gọi nó là “littérature pour la jeunesse”, “littérature denfance et
de jeunesse”, "littérature de jeunesse".
Với một đối tượng phục vụ có dãy tuổi dài như vậy, văn học
thiếu nhi hiển nhiên sẽ có sự đa dạng về đề tài và thủ pháp nghệ thuật. Văn học
thiếu nhi cho lứa tuổi từ mầm non đến trung học cơ sở sẽ khác với văn học cho lứa
tuổi trung học phổ thông. Chính vì vậy mà những nước nói tiếng Pháp còn gọi gộp
văn học thiếu nhi là “văn học cho trẻ em và thiếu nhi” (“littérature d’en-
fance et de jeunesse”). Cho nên, khi ta nói “văn học thiếu nhi” thì phải hiểu
đó là một tổng thể các sáng tác văn học dành cho từng lứa tuổi trong tầng lớp học
sinh từ tiểu học đến trung học phổ thông. Các sáng tác đó sẽ bao gồm cả thơ,
văn xuôi và kịch, trong đó chiếm một vị trí nổi bật là truyện văn vần và truyện,
tiểu thuyết văn xuôi.
Trên tinh thần nói trên, văn học thiếu nhi thực tế đã ra
đời cùng với văn học cho người lớn. Vào thời buổi đầu của văn học, các nhà văn
sáng tác không nhằm phân biệt đối tượng, đặc biệt là các nhà sáng tác dân gian.
Các bài ca dao, truyện cổ tích, truyền thuyết, trường ca sử thi... đều có đối
tượng là toàn thể công chúng, trong đó các em nhỏ đều thích nghe, thích đọc. Kể
cả những em chưa biết chữ vẫn thích nghe các bài đồng dao, các bài ca dao, các
khúc hát ru, nghe những câu chuyện cổ tích thần tiên. Những em học sinh đã biết
đọc thì say mê đọc Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Một nghìn lẻ một đêm, Thần
thoại Hi Lạp, Truyện cổ Andersen, Truyện cổ Grimm... Những học sinh trung học
cơ sở bắt đầu làm quen với các truyện ngụ ngôn như Truyện ngụ ngôn Aesop, Truyện
ngụ ngôn La Fontaine, với các trường ca Iliad, Odysse, Ramayana, Truyền thuyết
Robin Hood, Trường ca Đamsan, với các truyện thơ Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa,
Lục Vân Tiên... Và những học sinh trung học phổ thông thì bắt đầu tò mò đọc các
truyện và tiểu thuyết khám phá, phiêu lưu, trinh thám, tình báo, khoa học viễn
tưởng… của các nhà văn như Jules Verne (Pháp) với Năm tuần trên khinh khí cầu,
Hành trình vào tâm trái đất, Hành trình từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Hai vạn dặm
dưới biển, Vòng quanh thế giới 80 ngày, Hòn đảo huyền bí, Thuyền trưởng 15 tuổi...,
Alexandre Dumas (Pháp) với Ba chàng lính ngự lâm, Bá tước Monte Cristo,
Jonathan Swift (Ailen) với Những cuộc phiêu lưu của Gulliver, Lewis Car- roll
(Anh) với Alice ở xứ sở diệu kỳ, Mark Twain (Mi) với Những cuộc phiêu lưu của
Tom Sauyer và Những cuộc phiêu lưu của Huckle- berry Finn, Walter Scott
(Scotlen) với Ivanhoe, Robert Louis Stevenson (Scotlen) với Đảo giấu vàng,
Carlo Callodi (Italia) với Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio, Yuri Mikhailich
với Nam tước Phân Gôn-rinh, Alexandre Na- sibov với Hầm bí mật bên sông En-bơ,
Đoàn Giỏi với Đất rừng phương Nam, Tô Hoài với Dế mèn phiêu lưu ký... Bên cạnh
đó có những cuốn sách cổ điển và hiện đại thu hút cả các học sinh trung học cơ
sở lẫn trung học phổ thông như: Tây du ký, Thuỷ hử, Những người khốn khổ, Nhà
thờ Đức Bà ở Paris, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kính vạn hoa...
Như vậy, văn học thiếu nhi có thể được coi là những sáng tác dễ đọc, bao gồm từ văn học dân gian, văn học cổ-trung đại đến văn học hiện đại. Cùng với thời gian, sự phát triển của văn học đã đi từ đơn giản đến phức tạp. Từ đó xuất hiện những tác phẩm khó đọc đối với lứa tuổi học sinh. Vì thế, từ thế kỷ XVIII, người ta bắt đầu việc sáng tác các tác phẩm dành riêng cho quan tâm đến đã tồn tại từ buổi đầu của văn học nhưng quan niệm và tên gọi về “văn học thiếu nhị” thì mới xuất hiện từ thế kỷ XVIII ở phương Tây. Tuy nhiên, cái mốc xuất hiện này chỉ là tương đối. Ở các nước khác nhau có thể có sự xuất hiện sớm hoặc muộn hơn. Nói đến văn học thiếu nhi tức là nói đến những sáng tác kinh điển của văn học dân gian, của văn học cổ đại, trung đại hoặc hiện đại có đối tượng là cả thiếu nhi và người lớn, cùng với những sáng tác văn học hiện đại dành riêng cho đối tượng học sinh như Doraemon của Fujiko Fujio (Nhật), Harry Potter của Joanne Rowling (Anh), Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh...
Ngày nay, thiếu nhi đã trở thành một đối Các nước đều có
các tổ chức nhà nước hoặc tượng quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. có Ngày Quốc
tế thiếu nhi, Liên Hiệp Quốc các hội đoàn phụ trách về thiếu nhi. Thế giới có
Quỹ Nhi đồng, Uỷ ban Quốc tế về sách cho thiếu nhi có giải thưởng quốc tế đầu
tiên cho sách thiếu nhi là Giải thưởng Hans Christian Andersen (thành lập năm
1956)... Ngành giáo dục cũng dành thời gian cho thiểu nhi nhiều nhất (10-12
niên học). Trong tỉnh thần đó, văn học dành một bộ phận riêng cho thiếu nhi là
một việc cần thiết và hợp lý.
1.2. Đặc điểm và vị trí của
văn học thiếu nhi trong nền văn học quốc gia
Có nhà nghiên cứu đã đề xuất một số đặc điểm của văn học
thiếu nhi: đơn giản và chân thật; nhân vật chính là trẻ em (với văn tự sự); thể
hiện cái nhìn của trẻ em; giọng văn lạc quan; thiên hướng huyễn tưởng; các cực
tương phản (thiện-ác, tốt-xấu, ngày- đêm, sáng-tối, hạnh phúc-nghèo khổ, ảo tưởng-thực
tiễn).
Tuy nhiên, trên thực tế, nhân vật chính trong tác phẩm
văn học thiếu nhi không phải nhất thiết lúc nào cũng là nhân vật trẻ em, và tác
phẩm văn học thiếu nhi không phải lúc nào cũng mang cái nhìn của trẻ em. Những
bài hát ru, ca dao, truyện cổ tích, hay những truyện hiện đại như Hai vạn dặm
dưới biển, Những cuộc phiêu lưu của Gulliver, Lá cờ thêu sáu chữ vàng... cho ta
thấy những cảnh tượng đời sống của con người dưới góc nhìn người lớn. Nhân vật
chính trong Tây du ký hay trong Những cuộc phiêu lưu của Gulliver cũng không phải
là trẻ em. Điều quan trọng là tác phẩm văn học đó phục vụ ai chứ không phải là
ai đóng vai nhân vật chính và điểm của ai.
Văn học thiếu nhi cũng không phải lúc nào cũng lạc quan.
Văn học dân gian không thiếu những bài hát ru và ca dao buồn, không thiếu những
truyện có kết cục buồn như một số truyện ngụ ngôn, một số truyện cổ tích như
truyện Sự tích bình vôi, Sự tích trầu cau, Cô bé quàng khăn đỏ (phiên bản gốc)...
Trong truyện Cô bé quàng khăn đó, theo phiên bản của Charles Perrault, cô bé
quàng khăn đỏ bị con sói nuốt chửng là cảnh kết thúc của truyện; còn trong
phiên bản của Grimm thì nó được thêm cảnh người thợ săn giết con sói, mổ bụng
sói cứu sống hai bà cháu cô bé. Một số truyện phiêu lưu như Những cuộc phiêu
lưu của Pinocchio (phiên bản đầu), Những cuộc phiêu lưu của Gulliver, Những cuộc
phiêu lưu của Tom Sawyer... cũng không thể nói là lạc quan hay bi quan. Chúng
chỉ cho ta thấy ở đó những chuyện phiêu lưu kỳ lạ, hấp dẫn của nhân vật chính.
Như vậy, khảo sát thực tế loại hình văn học thiếu nhi, chúng tôi thấy có thể nói đến mấy đặc điểm chính của nó như sau:
Trước hết, như trên chúng tôi đã nói, văn học viết cho
thiếu nhi là văn học dễ đọc, dễ xem, tức là những sáng tác chỉ mô tả và diễn giải
hiện thực bằng hình ảnh và lời văn đơn giản, dễ hiểu chứ không phải bằng các
khái niệm. Đó là loại văn học phù hợp với tư duy hình tượng và tư duy diễn giải
của trẻ em. Trong tinh thần đó, truyện tranh là một thể loại văn học quan trọng
của thiếu nhi tuổi nhỏ. Ngay cả những hình ảnh thần tiên cổ tích cũng phải là
những hình ảnh mô phỏng đời sống hiện thực chứ không phải là những mô hình vấn
đề. Những câu chuyện phiêu lưu của nhân vật Tom Sawyer hay của Harry Potter đều
giống nhau về kiểu tình tiết nhưng chúng khác nhau về khung cảnh thế giới. Tom
Sawyer là thế giới hiện thực, Harry Potter là một thế giới huyễn tượng. Khi tiếp
thu Harry Potter, trẻ em được hình dung là mình được bước vào một thế giới khác
với thế giới hiện thực. Tuy nhiên, cả hai cuốn tiểu thuyết này đều thích ứng với
tư duy diễn giải của trẻ em chứ không cần tư duy lý giải.
Thứ hai, văn học thiếu nhi là loại văn học đem lại sự
thích thú. Theo tâm lý học trẻ em, thiếu nhi tuổi học sinh có thiên hướng tiếp
thu các sự việc, hiện tượng bên ngoài để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu của “cái
tôi” chứ chưa phải của cái “siêu tôi”. Nhà tâm lý học Freud (Áo) đã đưa ra ba
khái niệm cơ bản để mô tả quá trình phát triển nhân cách của một con người: đó
là “cái nó”, “cái tôi” và “cái siêu tôi” (hay nói theo tiếng Hán-Việt là “tự
tha, tự ngã, siêu ngã”). Trong nguyên tác tiếng Đức, ba khái niệm này có tên là
“das Es, das Ich, das Über-Ich”. Ba thuật ngữ này đã được các nhà tâm lý học
châu Âu dùng tiếng Latinh để gọi chúng là “id, ego, super- ego”. Đây là ba thuật
ngữ chỉ ba cấp độ của một nhân cách con người. “Id” là cấp độ bản năng nguyên
thuỷ bẩm sinh; “ego” là cấp độ hình thành lý trí dưới sự tác động của thế giới
bên ngoài để làm thành “cái tôi”; “superego” là cấp độ phát triển nhân cách đến
tầng ý thức xã hội. Freud đã ví cái “Es” (“id”) như là một con ngựa, cái “Ich”
(“ego”) như là người cưỡi ngựa có khả năng kiểm soát con ngựa, cái “Über-Ich”
(“super- ego”) là cái tôi mang ý thức xã hội có nhiệm vụ điều chỉnh người cưỡi
ngựa.
Như vậy, lứa tuổi học sinh mới chỉ có thiên hướng tiếp
thu những cái gì đem lại sự thích thú cho “cái tôi” để nó chế ngự “cái nó” ở
bên trong “cái tôi”. Loại văn học có những tư tưởng xã hội thì phải đợi “cái
siêu tôi” mới có thể được tiếp thu. Tất nhiên, đó là sự khác nhau giữa văn học
thiếu nhi và văn học người lớn về nguyên tắc loại hình.
Trên thực tế, khi có những tác phẩm được ngô viết dành
cho cả thiếu nhi lẫn người lớn thì thu cái tôi và cái siêu tôi đều tham gia tiếp
nhận nhà Việc này thường xảy ra với một lứa trẻ em ở cuối tuổi học sinh.
Thứ ba, văn học thiếu nhi có thiên hướng sư phạm (răn dạy).
Ở lứa tuổi dưới trưởng thành, học sinh là lớp người cần được giáo dục. Cùng với
các bộ môn giáo dục khác trong nhà trường, văn học đương nhiên cũng có nhiệm vụ
tham gia làm công việc răn dạy trẻ em. Những bài thơ, những câu chuyện mang
tính ngụ ngôn, những sáng tác văn xuôi luôn có một thông điệp như một bài học.
Nhưng văn học không răn dạy bằng những diễn ngôn quyền lực công khai, mà nó khơi
gợi, khuyên bảo bằng hình tượng nghệ thuật. Trẻ em sẽ rút ra bài học về lòng
yêu nước sau khi đọc Lá cờ thêu sáu chữ vàng, các bài học đạo đức, ứng xử, bài
học về làm người qua Dế Mèn phiêu lưu ký, Truyện ngụ ngôn La Fontaine... Những
bài học bằng hình tượng nghệ thuật đó có sức truyền cảm sâu sắc đến tận tầng tiềm
thức của trẻ em. Đó cũng là giá trị của văn học thiếu nhi.
Với những đặc điểm đó, văn học thiếu trong việc phục vụ sự
phát triển giai đoạn nhi có vai trò và vị trí quan trọng đầu tiên thiếu nhi giữ
vị trí đi đầu trong công cuộc đầu của con người. Vì thế, có thể nói văn học
khai tâm và khai trí cho con người.
2. Các chức năng của
văn học thiếu nhi
Một nhà nghiên cứu đã cho rằng: Văn học đem lại lợi ích
cho trẻ em theo bốn cách chính: 1) Nó giúp trẻ em hiểu rõ hơn bản thân mình, hiểu
rõ người khác, hiểu rõ thế giới quanh ta và hiểu các giá trị thẩm mĩ của ngôn
ngữ viết. 2) Khi đọc văn tự sự, trẻ em
vì thường nhập vai thành một trong những nhân vật. 3) Thông qua suy nghĩ, lời
nói và hành động của nhân vật đó, trẻ em hiểu được sâu tính cách và các giá trị
của bản thân. 4) Thông thường, do trải nghiệm văn học, những cách ứng xử và cấu
trúc giá trị của trẻ em sẽ biến đổi hoặc mở rộng. Đây chính là những nhiệm vụ
chính của văn học thiếu nhi.
Giống như văn học dành cho người lớn, văn học thiếu nhi
cũng được coi là một kiểu nhân học. Vì thế, những chức năng của nó cũng không nằm
ngoài phạm vi chức năng của văn học nói chung. Cái khác nhau giữa chức năng của
hai loại văn học này chính là ở mức độ nhấn mạnh của mỗi chức năng dành cho mỗi
loại văn học. Tuy nhiên, cũng có những chức năng của văn học người lớn chưa cần
được áp dụng cho văn học thiếu nhi, ví dụ như chức năng phản biện xã hội.
Cần nói rõ thêm rằng khi nói đến các chức năng của văn học
thiếu nhi là nói các chức năng của loại hình văn học đó. Điều đó có nghĩa là
không phải tất cả các chức năng đều có mặt trong một tác phẩm. Mỗi tác phẩm có
thể thiên về một chức năng này hay một chức năng khác, nó thể hiện sự tâm và mục
đích nghệ thuật của nhà quan văn đối với thiếu nhi. Ở đây, chúng tôi xin nêu ra
một số chức năng theo thứ tự quan trọng của chúng dành cho loại hình văn học thiếu
nhi.
2.1. Chức năng giáo dục
Đây là chức năng quan trọng hàng đầu của văn học thiếu
nhi và cũng là chức năng được công nhận đầu tiên. Thiếu nhi là lớp người non trẻ
cả về thể chất lẫn tinh thần, thế giới bên ngoài đều lạ lẫm với chúng. Ngay khi
trở thành con người có ý thức, chúng đã cần ngay sự giáo dục của người lớn. Người
lớn đã phải huy động mọi nguồn lực và phương tiện để giáo dục thiếu nhi. Trong
tinh thần đó, văn học đã chứng tỏ là một phương tiện rất hữu hiệu cho việc giáo
dục lớp trẻ.
Khác với những loại hình giáo dục khác, văn học và văn học
thiếu nhi giáo dục học sinh bằng những bài học hình ảnh. Những hình ảnh đó có
thể là những bức vẽ, những bức tranh, ảnh trực quan; có thể là những hình tượng
nghệ thuật được mô tả bằng lời văn. Những hình ảnh đó là những phương tiện chuyển
tải bài học phù hợp với sự tiếp nhận của trẻ em, có khả năng truyền cảm trực tiếp
đến tận tầng tiềm thức của trẻ em, không cần qua các khái niệm. Đó là những bài
học về đạo đức, về thái độ đối với quê hương đất nước và với hành tinh của
chúng ta, về thái độ đối với những giá trị chân- thiện-mĩ.
Thứ nhất là bài học đạo đức. Với lứa tuổi nhỏ, văn học sẽ
cung cấp những tác phẩm thơ ngắn và những câu chuyện có hình minh hoạ, khơi gợi
những bài học về lễ nghĩa trong gia đình, với người thân và bạn bè. Với lứa tuổi
lớn hơn, văn học sẽ dành những tác phẩm có những bài học đạo đức về lễ nghĩa
trong cộng đồng và xã hội. Những tác phẩm đó có thể là truyện ngụ ngôn, truyện
và tiểu thuyết ngắn, tiểu thuyết dài kỳ, hàm chứa những bài học về đạo lý làm
người trong cộng đồng. Đó là loại văn học có phạm trù cái thiện làm trung tâm.
Để phục vụ cho giáo dục đạo đức, văn học thiếu nhi còn
khơi gợi các bài học về cách ứng xử cho trẻ em. Bên cạnh những bài học về quy tắc
đối xử, văn học có thể góp phần răn dạy trẻ em những cách ứng xử trong gia đình
và trong cộng đồng thông qua những câu ca dao, những bài thơ ngắn, hay những
truyện ngắn, thậm chí cả tiểu thuyết. Trẻ em có thể rút ra nhiều bài học ứng xử
qua những câu chuyện của Dế Mèn phiêu lưu ký, của Tom Sawyer hay của Huck-
leberry Finn... Đọc Dế mèn phiêu lưu ký, bạn đọc nhỏ tuổi có thể liên tưởng đến
bản thân và bạn bè xung quanh. Đọc Tom Sayer và Huckleberry Finn, các bạn đọc
nhỏ tuổi của chúng ta cũng không khó khăn coi họ như là những người bạn Việt
Nam ở quanh chúng. Chúng dễ dàng tiếp nhận những hành động và cách ứng xử của
những nhân vật mà chúng thích.
Bài học đạo đức cũng còn được rút ra từ những hình ảnh về
lòng nhân ái. Những hình ảnh “Bầu ơi thương lấy bí cùng” là những hình ảnh dễ
dàng đi vào tâm hồn trẻ thơ. Những câu chuyện về các nhân vật người hùng cứu
công chúa, về những cô gái nhà nghèo nhưng hiền thảo, thương người... chính là
những bài học về lòng nhân ái, và là những bài học sơ khai về chủ nghĩa nhân đạo
cho trẻ em.
Thứ hai là bài học về thái độ với đất nước và với hành
tinh của chúng ta. Theo đó, văn học thiếu nhi còn phải có nhiệm vụ gieo trồng
cho trẻ em tình cảm với quê hương đất nước và với cả hành tinh của chúng ta. Điều
này cũng là một trong những nhiệm vụ đầu tiên của văn học thiếu nhi. Bởi vì trẻ
em cần phải biết họ là ai trên thế giới này. Văn học dân gian đã thực hiện ngay
nhiệm vụ đó qua những câu ca dao nói về non sông đất nước: “Nhất cao là núi Ba
Vì/ Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”... qua những cuốn tiểu thuyết như Đất rừng
phương Nam của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía của Bắc Thôn, Đảo hoang
của Tô Hoài... Bên cạnh đó, những truyện, tiểu thuyết phiêu lưu và khoa học viễn
tưởng của thế giới cũng giúp cho trẻ em
chúng ta làm quen với hình ảnh của trái đất (Vòng quanh thế giới trong 80 ngày,
Hai vạn dặm dưới đáy biển, Thuyền trưởng 15 tuổi…).
Thứ ba là bài học về thái độ đối với những giá trị
chân-thiện-mĩ. Văn học thiếu nhi giúp cho trẻ em bước đầu làm quen với những
giá trị cơ bản của con người là sự thật, cái tốt và cái đẹp ở quanh ta. Văn học
thiếu nhi trước hết là thể hiện sự chân thật, sau đó là nó đề cao những điều tốt
đẹp của tốt, cái đẹp đó được thể hiện bằng những con người và của cuộc sống.
Cái thật, cái hình ảnh sinh động, hấp dẫn, đem lại cảm giác thích thú cho người
đọc nhỏ tuổi. Đó là những cái thật của tấm lòng, cái tốt và cái đẹp của hành động
và tâm hồn các nhân vật văn học. Từ đó, nó truyền thụ cho đẹp đó được thể hiện
chân thật qua những trẻ em đạo làm người và lẽ sống. Cái tốt Dính, như các nhân
vật trong Tuổi thơ dữ nhân vật trẻ em như Kim Đồng, Vừ A đội (Phùng Quán)...
2.2. Chức năng phát triển
con người
* Phát triển nhân cách:
Tính Nhân cách bao gồm hai nhân tố chủ chốt: “tính khí”
và “tính cách”. Tính khí là “do những đặc tính di truyền quyết định. Tính cách
là một chiều cạnh nhân cách chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống và tiếp tục phát
triển và thay đổi trong suốt cuộc đời” (Kendra Cherry, chuyên gia tâm lý học
Hoa Kỳ). Văn học góp phần giáo dục tính cách. Nó không giáo dục tỉnh khí nhưng
có thể tác động đến tính khí của trẻ em. Giáo dục nhân cách không có nghĩa là
làm cho mọi trẻ em có một nhân cách mẫu như nhau, mà là giáo dục các tiêu chuẩn
ứng xử và hành động của con người cho các em. Sự phụ thuộc vào tính khí của mỗi
em sẽ làm thành nhân cách khác nhau của mỗi người.
phù hợp với trình độ tiếp nhận của trẻ em nhất. Bằng những
hình ảnh nghệ thuật hấp dẫn, những lời văn mĩ cảm của nghệ thuật ngôn từ, văn học
giúp cho trẻ em phát triển ngôn ngữ của mình, khơi gợi khả năng nhận thức văn
hoá-xã hội, từ đó nó giúp trẻ em phát triển năng lực tư duy, đi từ tư duy hình
tượng sang tư duy khái niệm. Đọc sách văn học trong đầu trẻ em sẽ liên tục nảy
ra các
Ở lứa tuổi học sinh, trẻ em chưa thể có được kinh nghiệm
sống để tạo ra tính cách cho mình. Văn học sẽ đảm đương nhiệm vụ cung cấp kinh
nghiệm sống cho trẻ em để từ đó trẻ em phát triển nhân cách cho mình. Đọc các
câu chuyện của Tom Sawyer, của Huckleberry Finn, của chàng Dế Mèn, trẻ em sẽ nhập
vai vào các nhân vật chính diện, tự hình dung mình là các nhân vật đó. Từ đấy,
chúng sẽ coi các nhân vật chính diện là những người thật ở đâu đó và tự coi
mình cũng có nhân cách tích cực giống như họ. Văn học thiếu nhi cũng đưa ra cả
những nhân cách tiêu cực như là một sự tương phản để làm nổi bật nhân cách tích
cực, từ đó gia tăng giá trị tấm gương của nhân cách tích cực cho trẻ em noi
theo.
Trong việc giáo dục nhân cách, văn học thiếu nhi còn cung
cấp những kinh nghiệm giao lưu cho trẻ em, lôi trẻ em thoát ra khỏi thế giới
cái tôi khép kín ban đầu của chúng, đưa chúng hoà nhập với cộng đồng làm cho
chúng trở nên quảng giao hơn, ít coi mình là trung tâm (Jean Piaget). Cái đó có
thể được gọi là sự khai tâm của văn học.
* Phát triển trí lực:
Một nhiệm vụ to lớn của văn học thiếu phục vụ giải trí
song song với nhiệm vụ giáo dục cho trẻ em. Tất nhiên, có nhiều bộ môn giáo dục
khác thực hiện nhiệm vụ này, nhưng văn học sẽ là một bộ môn có hiệu quả đặc biệt
vì nó là bộ môn phù hợp với trình độ tiếp nhận của trẻ em nhất. Bằng những hình
ảnh nghệ thuật hấp dẫn, những lời văn mĩ cảm của nghệ thuật ngôn từ, văn học
giúp các em phát triển ngôn ngữ của mình, khơi gợi khả năng nhận thức văn hóa –
xã hội, từ đó giúp trẻ em phát triển tư duy, đi từ tư duy hình tượng sang tư
duy khái niệm. Đọc sách văn học, trong đầu trẻ em sẽ liên tục nảy ra các câu hỏi
về hiện tượng của thiên nhiên, của con người và xã hội. Những câu hỏi đó lại
kích thích trí tưởng tượng và dẫn đến óc sáng tạo của trẻ em.
2.3. Chức năng giải trí
Ở trên, chúng tôi đã nói văn học thiếu nhi đem lại sự
thích thú cho trẻ em. Đó chính là kết quả của chức năng giải trí của văn học
thiếu nhi. Đây cũng là động cơ đọc sách đầu tiên của trẻ em. Đối với một số người
lớn, động cơ đọc sách văn học trước tiên có thể là động cơ nhận thức, sau mới
là thích thú. Nhưng trẻ em thì thích thú phải là động cơ đầu tiên. Đọc mà không
thấy thích thì trẻ em sẽ không đọc nữa. Cho nên các nhà văn luôn phải quan tâm
đến chức năng này. Có người (ở phương Tây) cho rằng ban đầu văn học chỉ chú tâm
đến chức năng giáo dục, đến giữa thế kỷ XVIII nó mới chú ý đến chức năng giải
trí. Tuy nhiên, đây là nói đến phong trào sáng tác hiện đại của một nền văn học
dành riêng cho thiếu nhi (của nước Anh). Trên thực tế, văn học thiếu nhi, tính
từ giai đoạn dân gian trở đi, đã sáng tác để phục vụ giải trí song song với nhiệm
vụ giáo dục cho trẻ em. Chính vì thế mà trong tiếng Anh người ta còn nói đến một
thuật ngữ “edutainment” (kết hợp hai từ “education” (giáo dục) và
“entertainment” (giải trí).
2.4. Chức năng giao tiếp xã
hội
Tuổi học sinh là tuổi mở cửa ra xã hội. Việc giáo dục
giao tiếp xã hội trong nhà trường có một môn học được gọi là “giáo dục công
dân”. Tuy nhiên, những bài học của môn học này có nguy cơ bị khô khan, khó tiếp
thu. Trong tinh thần đó, văn học có thể tham gia tích cực và có hiệu quả hơn
trong việc truyền thụ những bài học giao tiếp. Những câu chuyện văn học về xúc
giữa con người với nhau sẽ làm thành sự tiếp những bài học sinh động cho học
sinh về giao tiếp xã hội, dạy cho học sinh lối sống và cách xử lý các tình huống
quan hệ. Chúng dễ dàng được tiếp thu và biến thành những bài thực hành cho trẻ
em, tạo cơ sở để trẻ em trở thành con người xã hội.
2.5. Chức năng hội nhập quốc
tế
Đây là một chức năng mới của văn học thiếu nhi. Trong quá
trình toàn cầu hoá hiện nay, việc hội nhập thế giới là rất quan trọng. Vì thế,
văn học thiếu nhi phải góp phần ngay từ đầu cho công cuộc này bằng cách tuyên
truyền cho trẻ em một thái độ khoan dung và biết chấp nhận sự khác biệt. Văn học
loại này sẽ là những câu chuyện về cuộc sống của những nhân vật thuộc các chủng
tộc khác nhau trên thế giới, về người nhập cư, du lịch xuyên biên giới, về tình
bạn, tình yêu giữa con người các màu da...
Có thể nói văn học thiếu nhi có chất lượng là loại văn học
“góp phần tạo ra những cá nhân có trách nhiệm, những cá nhân thành công và những
cá nhân biết quan tâm (Martha Crippen, Hoa Kỳ).
3. Các khung cảnh chính
giúp phát huy chức năng của văn học thiếu nhi
Nói đến khung cảnh phát huy chức năng của văn học thiếu
nhi, nhà nghiên cứu Shelton L.Root Jr. (Hoa Kỳ) cho rằng: “Ba khung cảnh chính
trong đó văn học thiếu nhi vận hành là gia đình, thư viện công cộng và trường học”.
Chúng tôi cho rằng ở Việt Nam hiện nay, ngoài thư viện có thể kế thêm một địa
chỉ nữa là nhà sách hay các quán cafe sách.
3.1. Gia đình
Theo Shelton Root, ở gia đình, những em nào có điều kiện
tiếp cận với sách văn học sẽ có khả năng tiến bộ ở nhà trường hơn so với những
trẻ em không có điều kiện đó. Đây là sự thật rõ ràng. Vì thế, mỗi gia đình nên
có một tủ sách văn học bên cạnh tủ sách khoa học. Đây là môi trường thuận lợi đầu
tiên cho sự phát triển trí lực và nhân cách người giáo dục quan trọng. của trẻ
em, trong đó cha mẹ đóng vai trò người giáo dục quan trọng.
3.2. Thư viện, nhà sách
Thư viện công cộng, nhà sách của các tổ chức tư nhân,
quán cafe sách là những địa điểm phổ biến sách phong phú hiện nay. Đó các em tiếp
xúc với sách văn học. Tuy nhiên, là một môi trường thuận tiện, thoải mái cho hiện
nay mạng internet đã mở ra một kênh phong phú cho các em tiếp cận sách, làm cho
tình trạng đọc sách ở thư viện bị giảm nhà sách cần triển khai các hoạt động
giao đi. Để khắc phục tình trạng này, thư viện và lưu sách văn học để thu hút
trẻ em.
3.3. Nhà trường
Thực ra phong trào đọc sách văn học ở nhà trường hiện nay
đang còn ở mức độ thấp. Đó là do nhà trường có sự hạn chế về tiết học liên quan
đến văn học, do nhà ng trường còn phải thực hiện những nhiệm vụ giáo dục khác
ngoài văn học. Gần đây, ở ng một số nước đã khuyến khích giáo viên ận truyền thụ
thêm sách văn học cho học sinh và ngoài sách giáo khoa ngữ văn. Điều này đòi ệt
hỏi nhà trường phải ý thức được vai trò và để tầm quan trọng của sách văn học đối
với học ác sinh để bố trí thời gian cho phù hợp. Dù thế nào thì nhà trường cũng
phải thấy đây là một môi trường không thể thiếu trong việc giáo dục con người bằng
văn học.
Như vậy, chúng ta đều thấy vai trò của văn học thiếu nhi
là rất quan trọng đối với sự phát triển con người của trẻ em. Tuy nhiên, các nước
trên thế giới lại có sự phát triển loại văn học này ở những mức độ khác nhau.
Điều này là do mỗi nước có những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau. Nhưng có một
điều kiện mà các nhà nghiên cứu trên thế giới có nhắc đến, đó là điều kiện về
nhận thức của người lớn. Ví dụ, khi nói đến sự không đồng đều trong văn học thiếu
nhi giữa Miền Bắc và Miền Nam Âu, nhà giáo dục học người Pháp Paul Hazard đã nhận
xét: “Trong lĩnh vực văn học thiếu nhi thì Miền Bắc vượt xa Miền Nam”. Tuy
nhiên, ông nói điều này là từ những năm 1920. Từ đó thì tình hình đã được cải
thiện. Nhưng dù sao điều nhận xét đó chủ yếu vẫn đúng. Nhiều người còn mở rộng
câu nhận xét đó cho cả Bắc và Nam Mĩ và cho rằng sự chênh lệch đó là do quan niệm
khác nhau về căn tính trẻ em. Về điều này, Hazard đã có một câu nói nổi tiếng:
“Đối với dân Latinh (người phía Nam), trẻ em chỉ được coi là người lớn tương
lai. Còn người Bắc thì hiểu rõ hơn cái chân lý thật sự này: người lớn chỉ là trẻ
em đã trưởng thành”, có nghĩa là người Bắc coi trọng trẻ em hơn người Nam. Có
thể câu nói của Hazard có phần cường điệu nhưng nó cũng đáng để chúng ta suy
nghĩ khi quan niệm về thiếu nhi và về văn học thiếu nhi.
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DÂN
Nguồn: Tạp chí Lí luận và PB văn học nghệ thuật.
Chú thích:
1 Robert Sweetland, "What is Children's Litera-
ture? What are its characteristics? https://www. homeofbob.com/literature/curriculum/characristcs
ChildLit.htm.
2 "id, ego, and super-ego", Id, ego and
super-ego - Wikipedia, last edited on 18 May 2022.
3 Shelton L. Root Jr., "Children's Literature",
Chil-
tdren's Literature - History, Literature in the Lives of
Children, Environment, Awards - York, Books, Illus-
trated, and Reading - StateUniversity.com.
4 Kendra Cherry, "The Psychology of Personality
Formation", The Psychology of Personality Formation (verywellmind.com).
Updated on March 16, 2022.
5 Shelton L. Root Jr., "Children's Literature",
bài đã dẫn.
6 Manuela Pulimeno, Prisco Piscitelli, Salvatore Colazzo
(Italia), "Children's literature to promote students' global development
and wellbeing", (PDF) Children's literature to promote students' global
development and wellbeing (researchgate.net),
28 Jan. 2020.
7 Martha Crippen, "The Value of Children's Lit-
erature", The Value of Children's Literature | Oneota Reading Journal |
Luther College.
8 Shelton L. Root Jr., "Children's Literature",
bài đã dẫn.
9 "The development of children's literature",
Encyclopaedia Britannica, children's literature - The development of children's
literature | Britannica.
* Đề tài được thực hiện bằng nguồn kinh phí hỗ trợ từ
Chương trình Vườn ươm Sáng tạo Khoa học và Công nghệ Trẻ, được quản lý bởi
Trung tâm Phát triển
Khoa học và Công nghệ Trẻ - Thành đoàn thành phố
Hồ Chí Minh và Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí
Minh theo hợp đồng số 41/2021 HĐ- KHCN-VU ký ngày 08.12.021.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét