Ngày
nào cũng vậy, khi tiếng còi 12 giờ vang lên là má tôi cất tiếng dặn con Lời,
con nhỏ giúp việc:
-
Lời ơi, coi chừng gà qué đó con ơi. Cậu sắp về rồi đó.
Tiếp
theo lời dặn của má tôi là tiếng la ùi… ùi! Oái… oái! Thật to của con Lời và
tiếng vỗ tay của nó. Có bữa nó chạy một vòng quanh nhà và tiếng la, tiếng vỗ
tay, tiếng chân dậm sầm sập của nó có kèm theo tiếng gà la quang quác, tiếng
vịt cạp cạp inh ỏi.
Chừng
15 phút sau, ba tôi về. Ông dắt xe đạp kê ở hiên sau rồi đi thanh sát một lượt
từ nhà ngang đến nhà bếp, còn đôi mắt thì lục lọi xa hơn, ở mãi đầu giếng, góc
rào. Trăm lần như một, câu nói đầu tiên của ông là câu hỏi con Lời:
-
Mày có nhớ coi chừng gà không?
-
Dạ thưa có - Con Lời đáp lại gọn gàng như một tiếng vang.
-
Gà hàng xóm có tới phá không?
-
Dạ thưa không.
Có
lần tôi suýt bật cười to vì để làm chứng cho câu trả lời đầy thiện chí và bảo
đảm của con Lời, có một cây ớt bị bươi gần trốc gốc, nằm uể oải nghiêng một bên
hông và đầu tai mặt mũi bám đầy những cỏ rác do chân gà bới tung lên. Ba tôi tỏ
dáng bằng lòng, tháo cái mũ nhựa trắng (chế tạo tại Đài Loan) ông đội tức thời
giao cho em tôi cất rồi lại vục tay vào thau nước rửa mặt. Nước mát mẻ làm mặt
ông tươi lại. Lúc bấy giờ ông mới bình tĩnh giảng cho con Lời nghe về sự lợi
hại của việc trông chừng gà.
-
Gà hàng xóm nó qua… à hà… vừa bươi trốc gốc gãy đọt… à hà… mấy cây của tao
trồng… à hà… vừa giẫm dơ chỗ vại nước. Phải rao cho chủ gà người ta biết để
người ta nhốt lại. Chớ sao? Ai lại nuôi gà mà… mà không chịu mua thóc cho nó
ăn? (Chỗ này ông bận lên cao giọng để cho hàng xóm nghe nên quên mất tiếng à hà
nhật dụng).
Má
tôi ở nhà trên bước xuống “suỵt” một tiếng nhỏ:
-
Thôi mà ông, nói làm chi chuyện nhỏ.
-
Sao? Bà bảo sao?
Đôi
mắt của ba tôi tròn xoe lại. Cái miệng hé mở, sắp tròn lại theo con mắt nhưng
chưa kịp.
-
Chỗ hàng xóm láng giềng với nhau… Nhường nhịn nhau.
Ba
tôi đi sấn tới, tay mặt còn cầm cái khăn ướt, vung lên:
-
Thì tôi có bảo bà sao đâu?
Trông
bộ ba tôi sấn sổ mà không nín cười được. Dù cố gắng hết sức để tạo ra một uy
thế hùng hậu, sức vóc của ba tôi cũng chỉ gói gọn ở trong bốn mươi lăm kí-lô là
cùng. Tay nhỏ, chân ngắn, cơ thể ông là một sự khiêm tốn, một sự an phận. Giá
sinh vào một loài chim hay loài thú thì ông sẽ được an ủi nhiều hơn. Khi nổi
giận, khi chuẩn bị chiến đấu, con chim xù lông vũ, con thú xù lông mao và đối
phương thấy nó tăng thêm tầm vóc, tăng thêm bề thế có thể sợ hãi mà bỏ chạy.
Đằng này ba tôi sinh làm người mà là người văn minh nên những cái gì có liên
quan đến sự chiến đấu đều bị mài xóa mai một đi hết. Móng chân móng tay đều cắt
ngắn. Râu ria bị cạo hàng ngày. Rốt cuộc dường như chỉ có con Lời là còn chịu
nghe lời ông thôi.
Má
tôi an ủi:
-
Thôi anh lên thay áo đi rồi ăn cơm. Đi làm cả buổi nhọc mệt, còn lo chi chuyện…
nhỏ…
Chết!
Bà định nói “chuyện nhỏ nhặt”. Ba tôi sẽ nổi điên lên vì bị đánh giá quá hạ như
thế. Nhưng may, bà giữ lại chữ “nhặt” và nói chữa:
- …
lo chi chuyện ở nhà. Lời ơi, tao cứ phải dặn mày luôn là coi chừng gà cho cậu.
Tiếng
“cậu”, má tôi nói thật ngọt ngào. Ở từ môi một người đẹp như má tôi, tiếng
“cậu” thật có giá trị. Ba tôi ngoan ngoãn đi lên phòng thay áo cũng phải.
Trong
bữa ăn, má tôi nói chuyện êm đềm.
-
Tối thứ Bảy cậu định đi xem Đại nhạc hội hay Yến Hương?
-
Yến Hương là cái gì?
-
Là tên gánh hát chớ gì.
-
Gánh hát gì lại tên là Yến Hương
-
Ủa? Tên người ta, người ta có quyền tự do đặt mà.
-
Tự do cái gì lạ vậy? Gánh hát thì phải Kim Chung, Kim Chưởng, Thanh Minh, Thanh
Thinh… chớ ai lại Yến Hương?
Má
tôi biết là óc của ba tôi còn bị đầu độc bởi sự bất bình lúc nãy, nên bà gắp
thịt bỏ vào bát ba tôi vừa mời:
-
Cậu xơi món thịt bò thui nầy xem. Hàng này ngon nhất chợ đấy.
Ba
tôi gắp thịt chấm vào tương, nhai chầm chậm nghiêm trang như để nghiệm xem lời
khen của má tôi có đúng không. Ông im lặng ăn luôn một thôi ba, bốn miếng. Chắc
là đang tìm một tĩnh tự nào thật thích đáng để tặng cho món thịt bò này. Chúng
tôi nhẫn nại đợi. Chợt ông đằng hắng to như để vội đánh lui một mảnh tương đi
lộn qua thanh quản rồi khề khà nói:
-
Mấy con gà hàng xóm…
Tôi
trố mắt lên nhìn em tôi. Em tôi đưa mắt nhìn sang má tôi.
-
…mình không ném đá cho nó sợ thì nó hay dể ngươi lắm. Cũng như người vậy. Nhưng
chẳng lẽ đường đường như tao mà lại đi cầm đá ném gà? Chúng mày, - đến đây ông
quay nhìn chầm chập vào mặt anh em tôi, - chúng mày ném đá thì phải phép hơn
tao. Bởi chúng mày nhỏ.
Tôi
nói:
-
Nhưng gà nhà mình cũng hay sang bươi móc bên vườn nhà láng giềng.
-
Thì bay phải gọi về. Có ai thích để vườn mình bị bươi chải bởi gà hàng xóm đâu?
-
Nhưng súc vật thì chúng nó biết gì? - Má tôi nói.
-
Sao lại không biết? Không biết sao khi đang bươi móc mà thấy bóng tôi là con gà
nào cũng vội vã bỏ chạy, mồm la quang quác?
-
Đó không phải là do những cảm tình tốt chúng dành cho cậu.
-
Biết rồi. Nhưng tốt hay xấu tôi không cần, miễn là chúng đừng làm tôi khó chịu.
Tôi
thấy không khí giữa ba má tôi đã có phần căng thẳng. Tôi vội can thiệp:
-
Sao ba lại không thích gà nhỉ? Tính ba hay yêu chim chóc lắm mà. Con còn nhớ
câu chuyện ba kể rằng ngày xưa ba đã lỡ bắn chết một con chim đang tha mồi…
-
Tao nói tha rác chớ đâu phải tha mồi.
-
Vâng, thì tha rác. Ba nhắm bắn trúng nó…
-
Mày kể sai rồi. Tao đâu có nhắm?
-
Chớ sao?
-
Tao bắn bậy mà trúng.
-
A! Tài ghê - em tôi nói chen vào - Ba bắn bậy mà trúng, còn con, nhắm hàng giờ
mà bắn vẫn sai. Mà nào phải bắn chim nhỏ đâu, nhắm bắn vịt mà vẫn sai đó.
“Vịt
hay gà thì cũng như nhau” tôi nghĩ. Thằng này ngu quá, mình khó khăn lắm mới
lái câu chuyện sang một ngõ khác thế mà nó lại kéo đâm sầm trở lại vào sân gà
vịt. Đúng y như tôi dự đoán, ba tôi quay sang nó.
-
Bắn vịt mà vẫn không trúng thì dở quá. Con vịt chậm chạp đờ đẫn hơn con gà
nhiều.
Tôi
lại phải ra tay can thiệp:
-
Nhưng mà ba này, rồi ba ăn thịt con chim ấy hay ba đem chôn nó?
-
Ba ăn thịt. Và đó mới chính là điều làm ba ân hận mãi.
-
Ba kể lại câu chuyện cho con nghe đi.
Ba
tôi ngần ngừ một lát. Dường như ông tỏ ý nghi ngờ thiện chí của tôi nên cuối
cùng ông nói:
-
Tụi bay nghe hàng trăm lần câu chuyện ấy rồi. Vả lại, con gà khác xa con chim
lắm. Con chim hiền lành ngây thơ, chớ không như con gà thực tế và đôi khi thô
lỗ.
-
Con gà sao lại thô lỗ? - Em tôi hỏi.
-
Chớ sao lại không? Đã lẻn vào ăn vụng trộm ở vại nước nhà người ta vậy mà con
gà mẹ vẫn túc con đĩnh đạc đàng hoàng và con cồ vẫn mời mọc ve vãn xung quanh
những con mái. Không biết tội của mình, trái lại còn phô trương…
Ba
tôi còn đang tìm chữ để tiếp, thì má tôi nói:
-
Tính con vật nó tự nhiên.
-
Nhưng sao khi thoáng thấy bóng tôi thì nó lại ba chân bốn cẳng mà chạy? Như vậy
thì sao gọi là tự nhiên được?
Thế
là má tôi bí. Mỗi lần phải cãi lý với ba tôi là thế nào má tôi cũng vội vã chịu
bí. Lần này bà liền trả thù bằng cách gắp một miếng thịt bò thật to, chấm đầy
tương rồi bỏ vô chén bà, thay vì đặt vào chén ba tôi. Em tôi nói:
-
Như vậy nghĩa là nếu con gà hàng xóm vừa lấm lét nhìn vừa mổ thức ăn thì ba sẽ
bằng lòng?
-
Có lẽ như vậy. Ít nhất nó cũng phải tỏ ra rằng nó biết lỗi.
-
Nhưng ba vẫn thích con Lời ném một viên đá thật to vào con gà phải không?
Ba
tôi cười liền, không dấu diếm:
-
Chính lời mày hợp ý tao. Chỉ cần một viên đá là mọi việc êm thấm hết. Nhưng mà này,
sao con Lời nó tiết kiệm những viên đá như vậy hè? Tại sao, tụi bay có biết
không? Tao tưởng vào tuổi nó thì ném đá là một cái thích chớ. Tao nhớ hồi nhỏ
tao mê ném đá lắm, đụng chỗ nào cũng ném được, ném vào chó vào gà nhà người ta,
vào bụi cây, vào mặt sông, vào bờ ao, ném cả lên trời nữa.
-
Tại ba là con trai còn Lời nó là con gái.
-
Thế dễ thường hai đứa bay cũng là con gái hết? Con trai 10 tuổi, 12 tuổi không
phải sinh ra để sợ ma, để đứa ở dẫn đi tiểu.
Chúng
tôi rụt cổ lại, ngồi ăn không nói vừa lẻn đưa mắt nhìn nhau cười ngầm. Những
con gà thật báo hại. Giá chúng nó chìa mặt ra đúng vào lúc này thì tôi và em
tôi sẽ mỗi đứa năm bảy hòn sỏi, ném vung tới, chết thôi.
Trưa
hôm sau vẫn theo lệ thường ba tôi ghếch xe đạp lên hiên và cuộc hội thoại thường
kỳ bắt đầu:
-
Lời ơi, mày có nhớ coi gà không?
-
Dạ thưa có.
-
Gà hàng xóm có tới phá không?
-
Dạ thưa không.
Ba
tôi bằng lòng, lẳng lặng đứng tháo cái mũ Đài Loan thì chợt có tiếng “kéc ke
ke” ở sân sau đưa tới. Thôi nguy rồi. Đúng là con gà cồ nhà thằng Hai vừa chui
khe rào qua lúc nãy. Ba tôi thoăn thoắt đi vòng ra sau. Ông bắt gặp con gà sớn
sác đứng nhìn ông bỡ ngỡ như nhìn một người khách lạ. Trông bộ nó vừa nghiêm
trang oai vệ vừa ngớ ngẩn buồn cười. Cái mào đỏ chóe cắt răng cưa phe phẩy qua
lại dịu dàng mỗi khi con gà làm một cử động nhỏ. Mà nó thì cử động không ngừng.
Toàn thân là gân, là bắp thịt nên nó không chịu đứng yên. Cặp giò cao hết bới
đến rảy. Rồi cái cổ cúi bên này, vục bên kia, cặp mắt láo liên, cái mặt ngẩng
qua nghếch lại. Bộ lông màu hung đỏ láng mướt đẹp rực rỡ nhưng lũ thằng Hai vặt
hết lông đuôi thành ra đầu đuôi không cân xứng. Nó thiếu thốn, nó ngượng ngập,
nó chênh vênh thế nào ấy. Y như một bài luận có cái nhập đề hào hoa (như cái
mào của con gà vậy), có cái thân bài vững vàng nhưng thiếu mất phần kết luận.
Và trông ngược trông xuôi tôi vẫn có cảm tưởng như đang nhìn một người mặc áo
sơ-mi thắt ca-vạt, choàng vét-tông, đội mũ Mossant mà chưa kịp mặc quần.
Con
gà thiếu thốn ấy đang nhìn ba tôi. Chừng như trên mặt ông có tỏa ra đằng đằng
sát khí nên con gà vụt bỏ chạy. Ba tôi rượt theo. Nó chạy dọc theo ranh rào. Ba
tôi ném một viên đá. Hụt! Con gà hoảng bay vụt trở lại. Ba tôi quay lui theo.
Thêm một viên đá ném tới. Lại hụt! Con gà gia tăng vận tốc và vừa chạy vừa ném
trả lại sau những tiếng cục tác giận dữ. Chạy đến gần cổng, tôi tưởng nó mừng
mà thoát ra nào ngờ nó chạy trở lui. Thật ngu dại một cách đáng giận, tôi nghĩ.
Có lẽ màu sáng của một khung đất trống làm nó nghi ngờ. Ba tôi lại ì ạch chạy
theo. Ý chừng đã thấm mệt nên chân trái hơi khuỳnh ra. Vừa đuổi đến sân sau thì
đầu ông bị ngáng vào dây phơi áo. Cái mũ Đài Loan rớt đánh “bộp” xuống nền xi
măng. Ông đứng lại cầm nắn cái mũ vừa xuýt xoa tìm xem có bị vết nứt không. Ở
góc rào, con gà cũng đứng lại chờ. Cái mào đỏ lắc lư uyển chuyển.
Má
tôi ở nhà ngang bước ra, vỗ tay mấy cái và la “ùi ùi”. Con gà nhìn nhớn nhác
rồi chui lọt vào khe rào, chạy mất. Bà bước lại cầm cái mũ trên tay ba tôi, xem
xét một hồi rồi nói:
-
May chưa bể. Thôi, cậu thay áo rồi ra rửa mặt.
Những
ngày tiếp theo, gió Bấc thổi ngược, gà bị dịch nhà nào ở nhà nấy, không còn ham
phiêu lưu nữa. Chúng đứng cú rũ, thỉnh thoảng ngã chúi xuống như anh chàng ngủ
gục. Lông lá xù ra. Cứt trắng dính bê bết ở lông bụng. Có con đi đếm bước ở ven
rào, cổ rụt vai nhô và cánh kéo lè phè trông như ông cụ mặc áo tơi lá. Thế là
ba tôi đỡ vất vả trong công việc săn đuổi và con Lời cũng yên tâm khi phải trả
lời “Dạ thưa có” và “Dạ thưa không”.
Sau
đó không biết chừng bao lâu, một buổi trưa kia thay vì vào giường nghỉ sau bữa
cơm, ba tôi lúi húi kiếm tìm món gì đó ở chái hiên sau. Má tôi nằm ở ghế bố
thiu thiu ngủ, tờ báo hàng ngày trải bên cạnh. Hai anh em tôi nằm ở đi-văng học
bài chiều. Buổi trưa nồng nực. Nắng vàng như mật ong.
Chợt
có tiếng đá ném đánh “đụi” một cái nặng. Tiếp theo là tiếng gà la “quác”. Rồi
một tiếng đá ném “đụi” tiếp nữa. Lại một tiếng “quác” to hơn. Sau đó là tiếng
con Lời la lớn:
-
Chết rồi, cậu ơi, cậu ném chết con gà của mình rồi.
-
Con gà nào của mình? - Giọng ba tôi.
-
Con gà của mình chớ của ai? Mợ mới mua hồi sáng. Mợ cột chân nó vào thanh củi
để đứng ở bụi chuối.
Anh
em tôi nghe có chuyện lạ vội bỏ sách nhảy ra.
Ba
tôi trên tay còn cầm một cục gạch - à, ném bằng gạch cẩn thận chớ không phải
bằng đá như tôi tưởng - và chắc đang chuẩn bị để ném bồi một phát nữa thì bị
con Lời làm cụt hứng. Tôi chạy lại bụi chuối.
Con
gà cồ tía nằm dãy đành đạch, cái mỏ ngáp ngáp. Chân nó bị cột bằng một sợi dây
vào thanh củi khá lớn. Chắc vì nó đang đứng giữa một đám lá ngải cứu nên ba tôi
không phân biệt được một con gà bị tù tội xiềng xích với một con gà tự do. Quả
thật vậy, vì liền đó ba tôi giải thích:
-
Tao đâu có thấy cái dây cột chân? Tưởng con gà của ai sang bươi phá. Tao vung
tay đuổi, nó không thèm chạy còn nghếch cái mặt nhìn. Có gà ai mà lại tự thị
như vậy chưa? Hỏi làm sao mà tao nhịn được?
Tôi
lại rờ con gà. Nó đập cánh, quơ chân lia lịa để tránh tôi. Ức nó dính bết máu.
Tôi nói:
-
Ba ném tài ghê. Trúng ngay cái ức.
Em
tôi họa theo liền:
-
Không ngờ ba cũng là xạ thủ có hạng, anh nhỉ? Chưa học trường Võ bị Liên quân
Đà Lạt mà đã…
-
Cú đầu trúng ức, cú sau trúng bụng. Thế là hai bàn trắng không gỡ.
Má
tôi lê dép xềnh xệch bước ra. Bà nói:
-
Đem con gà lại đây cho má coi nào.
Tôi
lật đật bê con gà trên hai tay. Cái cổ nó ngoẹo xuống. Em tôi vội vàng chạy lại
bê luôn cái thanh củi đi theo sau. Sợi dây nối liền hai chúng tôi. Trong thâm
tâm, chúng tôi cố ý bày vẻ linh đình như vậy để tạo một quang cảnh “bi hài” cốt
chế diễu ba tôi. Nhà thiện xạ không may mắn bị chạm tự ái thật. Ông gắt:
-
Tao biết tụi bay mà… Sướng lắm.
Chúng
tôi lén đưa mắt cho nhau, rồi che miệng vào cánh tay cười khúc khích. Má tôi
cất tiếng gọi to:
-
Lời ơi! Thôi, bắc nước sôi đi con.
VÕ HỒNG
Nguồn:
sưu tầm
P/s: “Nếu không kể truyện ngắn đầu tiên Võ Hồng viết năm 1939, khi
còn ngồi ở ghế nhà trường, truyện Mùa gặt, với bút danh Ngân Sơn, thì ông thật sự trình
làng với tập truyện Hoài cố nhân, năm 1959. Với tập truyện này Võ hồng khởi đầu một văn nghiệp
với 5 truyện dài : Hoa bươm bướm (1966), Người về đầu non (1968), Gió cuốn (1969), Nhánh rong phiêu bạt (1970), Như cánh chim bay (1971), 7 tập truyện ngắn : Lá vẫn xanh (1962), Vết hằn năm tháng (1965), Con suối mùa xuân (1966), Khoảng mát (1966), Bên kia đường (1968), Những giọt đắng (1969), Trầm mặc cây rừng (1971), và hai truyện thiếu nhi : Áo em cài hoa trắng (1969) và Mái chùa xưa (1971). Ngoài ra, những truyện ngắn của Võ Hồng
đăng rải rác trên các tạp chí trước 1975 như : Mong manh một thoáng, Cánh bướm v.v… được gom góp vào một tập truyện tựa đề : Trong vùng rêu im lặng, tái bản năm 1988” (Liễu Trương).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét