Thứ Tư, 27 tháng 9, 2023

ĐI TÌM ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC CHO THIẾU NHI





Văn học thiếu nhi vốn cũng phải thực hiện các chức năng của văn học nói chung. Nhưng tôi muốn lưu ý một chức năng mà thiếu nó, hẳn văn học thiếu nhi sẽ không tồn tại trong một sự phân biệt rành rõ với văn học người lớn như ta thường muốn, và vẫn thường bàn. Đó là yêu cầu kích thích, khơi gợi, phát huy năng lực tưởng tượng, sáng tạo ở các em. 

Điều này rất cần. Cần cho tuổi thơ, và cần ngay từ tuổi thơ. Một kết quả nghiên cứu khoa học cho biết tiềm năng phát triển của con người còn rất dồi dào. Ở não bộ con người có từ 14-16 tỷ tế bào, nhưng số tế bào được huy động vào các lĩnh vực sáng tạo, ở con người hôm nay, mới chỉ đạt khoảng, 5 đến 7 phần trăm quan sát các hoạt động thể thao thì cũng thấy con người vẫn tiếp tục bứt ra khỏi các giới hạn tự nhiên để vươn tới các kỷ lục mới, và dường như cuộc chạy đua này còn là vô cùng. Bên cạnh những cuộc đấu tranh cải tạo xã hội ngày càng rộng lớn, nhằmm vào mục tiêu nhân đạo hóa đời sống, nhằm vào sự vươn cao hơn chất lượng sống, con người đã nghĩ đến một cuộc cách mạng nhân chủng (révoļution anthropolegique) sẽ diễn ra cho thế kỷ sau, với sự phát triển hàng đầu có thể là khoa sinh học. Câu chuyện này mở ra còn dài, tôi sẽ không sa đà, đi lạc đề, mà chỉ muốn nhân đó mà nêu cái ý cho rằng con người còn dồi dào tiềm năng phát triển; và văn học có thể góp phần vào đó để đánh thức, để nuôi dưỡng các tiềm năng. Sự đánh thức ấy lại cần được tiến hành từ sớm, từ lứa tuổi nhỏ,,và văn học cho thiếu nhi có thể đóng vai người lính tiên phong. Ở ta từ xưa có câu : "Con hơn cha là nhà có phúc". Tôi nghe câu này vừa vui vừa băn khoăn. Vui vì thấy nhân dân ta không "phong kiến", nhân dân mong muốn và ủng hộ sự tiến bộ, không ngừng mong các thế hệ đến sau phải hơn lớp trước. Nhưng băn khoăn vì một lẽ khác còn chưa thấy trong câu đó cái nhận thức "con hơn cha" là một tất yếu lịch sử, một qui luật củamphát triển, mà lại xem như một chuyện cầu may. Có nghĩa là trong đời sống thực, phải chăng, phổ biến và quen thuộc mới chỉ có chuyện "con bằng cha", hoặc "con thua cha" nên mới có câu "con hơn cha" là phúc đức.

Đó là chuyện xưa. Nhưng đâu phải hôm nay không còn là hiện tượng để cho ta suy nghĩ.

Nói về nhu cầu khởi động và phát triển các tiềm năng, tôi muốn bắt đầu bằng vai trò của cổ tích và nhấn mạnh vị trí của cổ tích, là thể loại có lẽ ít ai trong đời lại không từng có lúc đam mê vì nó, không cần chờ cho đến khi biết chữ, cho đến lúc "vỡ lòng".

Truyện cổ trong diện mạo hết sức đa dạng ở mỗi dân tộc, và khắp thế giới có thể xem là món quà quí sẵn dành cho các em ở lứa tuổi thơ. Sức hút của truyện cổ theo tôi là ở chất ảo, chất tưởng tượng của nó. Không kể nó còn đậm chất vui, chất hài, chất ngộ nghĩnh, ly kỳ. Bằng ấy thứ chất liệu, nó có khả năng đưa các em vào một thế giới khác với hiện thực chung quanh, hiện thực thường ngày. Nhưng đâu vậy, nó vẫn không tạo một cảm giác xa lạ, mà vẫn gợi được nơi các em cái cảm tưởng tất cả những gì được kể đều là có thực, là có thể xảy ra. Nói cách khác, nó kích thích ở các em khả năng đồng hóa thế giới của tưởng tượng, của mơ ước vào thế giới thực. Phải nói khả năng đồng hóa, khả năng kết hợp đó là rất kỳ diệu; nó chỉ có thể là sản phẩm riêng của tuổi thơ. Con người đến lúc lớn khôn cái đó sẽ mất đi, cùng với sự hiểu biết và vốn kiến thức được bồi đắp thêm, ta lại để đánh rơi hoặc làm mòn mỏi đi năng lực của ước mơ, của tưởng tượng. Bên cái được có cái mất, đâu đó là luật bù trừ. Và chỉ những ai có khả năng cưỡng lại sự mất mát này, giữ được sự bồi đắp của tưởng tượng mới là người kéo dài được cuộc đối thoại với tuổi thơ.

Từ đặc trưng và đòi hỏi trên của lứa tuổi nhỏ mà đối chiếu với những gì được viết lâu nay, ta sẽ thấy chỗ dễ trở thành non yếu, hạn chế trên số không ít sáng tác của ta là đôi khi quá nệ vào cái thật, là thật quá. Ta chú trọng sử dụng một vài phương pháp miêu tả, và thường là mô phỏng theo cách viết cho người lớn, và nhìn chung là hơi nghiêng về cái trông thấy được trong hiện thực, cái phải giải thích được bằng lý lē. Trong khi, sự cảm nhận của các em không phải lúc nào cũng đòi hỏi có lý có lẽ.

Tôi không sành về khoa tâm lý, nhưng nghĩ rằng ở sự nghiên cứu tâm lý này hẳn sẽ mở ra cho sáng tác thiếu nhi nhiều hướng hay. Cần tìm hiểu xem vì sao truyện cổ dân gian hoặc của các tác giả cổ điển lại được các em yêu mê đến như vậy. Ở Liên Xô, truyện dân gian Nga xuất bản hơn 400 lần với tổng số 59 triệu bản. Andersen 407 lần với 65 triệu bản, Grim 300 lần với 43 triệu bản. Ở ta, mong có một sự thống kê hoặc điều tra xem kết quả ra sao.

Phải nóinrõ thêm: sự yêu thích cổ tích, đồng thoại là nét chung ở các em thuộc mọi thế hệ, mọi thời đại. Ở mỗi cuộc cách mạng hoặc chiến tranh, từng lúc từng nơi, có thể có nhu cầu này hoặc nhu cầu kia nổi lên; nhưng nhìn rộng ra, nhân loại trên con đường tiến hóa của mình, cũng như đời một con người, từ thơ ấu đến tuổi trưởng thành đều có một hướng đi và một đích chung: vươn về cái đẹp, cái chân, cái thiện. Cần từ cái chung có tính nhân loại này mà thấy các giá trị tinh thần phổ quát, thường được hàm chứa trong cổ tích, là bền vững và trường cửu.

Tôi xin chuyển sang thơ, vẫn với chức năng khơi gợi sức tưởng tượng ở các em, đồng thời với vô vàn câu hỏi được nhân lên theo năm tháng, suốt từ lúc ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành. Đem lại cho các em một nhận thức đúng, và ngày càng sâu về thế giới chung quanh, từ gần đến xa, từ thiên nhiên về con người, từ gia đình ra xã hội… đó là mục tiêu mà mọi người viết, mọi trang viết cần đạt được. Nhưng đạt được bằng con đường nào lại là chỗ phân biệt sách cho người lớn nói chung và sách cho thiếu nhi.

Nguồn gốc sự sống, sự tiến triển của lịch sử loài người là cả một giáo trình sinh học. Đó là tri thức của nhà trường. Nhưng Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh lại tỏ ra "bất chấp" tri thức sách giáo khoa. Tất cả thế giới này đều vì trẻ con mà sinh ra. Con trẻ đuợc sinh ra trước tiên. Rồi mới đến mặt trời, màu sắc, chim muông, âm thanh, sông ngòi, biển, mây, đường sá... rồi mới đến mẹ và bà, vì trẻ con “cần tình yêu, tiếp là lời ru và chuyện kể... Rồi mới đến bố, vì trẻ cần sự hiểu biết. Sau đó là chữ, bàn ghế, thầy giáo, phấn, bảng... Từ bảng mà có lớp học, và buổi học đầu tiên, thầy viết lên bảng :

… Chữ thật to :

Chuyện loài người trước nhất”.

Người đọc là chúng ta không ai bất bình trước sự vô lý đó. Trẻ em càng không biết cãi. Chỉ biết thích thú vì sự có lý của một chuỗi những điều phi lý. Sự chấp nhận đó đi ra ngoài những lô-gich thông thường. Vì có một lô-gích khác, làm nền - đó là: sự tồn tại của cuộc sống cần bắt đầu từ sự chăm sóc trẻ thơ. Sự tồn tại chung của loài người là vậy. Và tính ưu việt mà chủ nghĩa xã hội muốn có cũng là vậy. Bài thơ có sự nghịch lý, nhưng không phi lý. Và như vậy cần được giải thích, cần hiểu theo một lô gich khác. Hẳn không ai phản đối Xuân Quỳnh đã "bất chấp" tri thức sinh học mà đưa ra một lý thuyết "duy tâm" như vậy. Vì ở đây bài thơ không nhận trách nhiệm cung cấp tri thức là chính, hay nói đúng hơn, cung cấp một tri thức khác với sự cung cấp của sách giáo khoa.

Đi vào thế giới chung quanh, việc xác lập một quan hệ giữa các sự vật, đối với các em, được mở đầu bằng một quan hệ đơn giản nhất: tôi và khách thể, Chưa vội đào sâu, lật đi lật lại vấn đề. Chưa vội phân biệt bản chất - hiện tượng. Chưa vội một lúc bao quát hết các quá trình. Một quan hệ đơn giản, trong đó chủ thể là em bé đóng vai trung tâm. Tất cả nhìn từ mình. Tất cả là vì mình. Thơ thiếu nhi cần sự ngộ nghĩnh, là do thế. Và như vậy, yêu cầu nhận thức trong văn học cho thiếu nhi có một phần chất riêng, không giống cho người lớn. Cần một con đường riêng, một phương thức riêng để đi tới đó. Để từ hiện thực được nhận thức mà gợi mở, gắn nối các em với một khát vọng sâu xa về cái đẹp, cái tốt, cái thiện.

Như vậy là văn học cho thiếu nhi cần thực hiện nhiều chức năng, và chức năng nhận thức cũng có vị trí quan trọng. Một nhận thức từ những gì đơn giản, cụ thể, mà có sức mở ra mọi chuyện. Trước thế giới bao la, ngày càng mở rộng kỳ thú, các em hăm hở và băn khoăn trước vô vàn câu hỏi. Không thể tính cả một đời có biết bao câu hỏi, những câu hỏi ở tuổi thiếu nhi, theo tôi là câu hỏi bức xúc nhất, và ẩn rất nhiều thi vị.

Ở người lớn, các câu hỏi đặt ra không phải tất cả đều cần trả lời ngay. Có câu hỏi cần chờ đợi. Cần để "nghiên cứu". Để tôn trọng tính thời gian, và có lúc quá đà, thành "ngâm cứu". Nhưng với các em, có câu hỏi, là cần có câu trả lời.

Khỏi phải nói tuổi thiếu nhi là tuổi nhà trường với sự huy động tất cả bộ nhớ vào việc học, Khỏi phải nói cả một hệ sách giáo khoa là sự trả lời các câu hỏi ấy, theo một trật tự phân loại từ thấp lên cao, hẹp đến rộng, đơn giản đến phức tạp.

Văn học cũng nhằm góp vào việc trả lời các câu hỏi ấy. Nhưng như trên đã nói, có mặt nó hỗ trợ cho sách giáo khoa. Có mặt nó vạch lối đi riêng. Lại có một khu vực nhận thức chỉ vẫn học mới làm được. Đó là khu vực không chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn một nhu cầu trí tuệ, mà còn tiếp tục nuôi cấy cảm xúc, bồi đắp tâm hồn. Đó chính là khía cạnh làm nên ưu thế của văn học so với mọi khoa học, so với sách giáo khoa.

PHONG LÊ

(Nguyên Viện trưởng Viện Văn học)





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét