Trong quá trình sáng tác, Phạm Hổ rất chú ý tới thể loại truyện cổ tích hiện đại. Ông cho rằng, trẻ em ngày nay vẫn rất yêu thích truyện cổ tích, vì vậy, cần phải sáng tác cho các em những câu chuyện cổ tích mới.
Ở thể loại này, ông có ba tập: Cất nhà giữa hồ, Lửa vàng, lửa trắng và Chuyện hoa, chuyện quả. Trong đó, tập Chuyện hoa, chuyện quả nổi bật hơn cả, gồm 47 truyện, tập trung vào đề tài sự tích hoa, quả.
Nhà văn cho biết, hồi kháng chiến chống Pháp, ông có dịp đi từ Bình Định ra Việt Bắc để tham dự Đại hội Hội Văn nghệ Việt Nam. Trong chuyến đi ấy, ông đã nhiều lần ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cây rừng Trường Sơn. Ý định viết về cây, về hoa và quả nảy sinh từ đó. Nhưng phải nhiều năm sau, ông mới thực hiện được mong muốn này. Ông chọn cổ tích, muốn thông qua thể loại này để dẫn dắt tuổi thơ vào thế giới cỏ hoa kì thú.
Một nội dung cơ bản của Chuyện hoa, chuyện quả là giải thích về nguồn gốc của các loài hoa quả nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết của trẻ thơ. Bởi vì, khi đứng trước thế giới cỏ cây, các em thường hay hỏi về gốc tích của chúng, kiểu như: cây vú sữa được sinh ra như thế nào? vì sao cành lá cây đại lại như cái sừng hươu… Trước những câu hỏi như vậy, nhà văn chọn cách giải thích theo tinh thần cổ tích – chất phác, hồn nhiên mà thuyết phục tuyệt đối.
Nhà văn Nguyên Ngọc khi đọc Chuyện hoa, chuyện quả đã nhận xét rằng: “Tôi xin lỗi anh Phạm Hổ, tôi muốn nói to tát hơn một chút: dường như tác giả Chuyện hoa, chuyện quả muốn đưa ra một lí thuyết khác về nguồn gốc của muôn loài. Anh nói với các em: các em ạ, thế giới quanh ta muôn vẻ kì lạ kì diệu như vậy, tất cả do con người làm ra cả đấy” (1). Nhận xét trên là có cơ sở, đã thâu tóm được tư tưởng Phạm Hổ thể hiện trong toàn bộ 47 truyện của tập Chuyện hoa, chuyện quả. Cụ thể, nhà văn cho rằng con người làm ra thế giới cỏ cây, hoa lá theo nhiều cách khác nhau. Trước hết và căn bản, ông nói về sự hóa thân của con người, nói về hình thức tồn tại mới của con người sau khi chết. Chẳng hạn, cô gái biến thành cây đu đủ (Cô em biết lo xa), người mẹ trẻ biến thành cây vú sữa (Dòng sữa của người chị), người mẹ nghèo hóa thành cây sung (Người mẹ nghèo ít gạo nhiều con)… Ở đây, môtip biến dạng được nhà văn khai thác triệt để, tạo nên sức thuyết phục rõ rệt qua từng trường hợp cụ thể. Phạm Hổ cũng còn có cách giải thích khác, đó là việc con người đặt tên, gán cho tự nhiên một truyền thuyết nhất định. Theo cách này, cái tự nhiên thuần túy được bổ sung ý nghĩa xã hội, có thể trở thành biểu tượng văn hóa. Trong Chuyện hoa, chuyện quả, các truyện kể về loài hoa huệ (Cô gái bán trầm hương), hoa thiên lý (Tiếng sáo và con rắn)… sử dụng lối giải thích này. Cách giải thích này là mới, chưa từng xuất hiện trong cổ tích dân gian.
Một nội dung khác, quan trọng hơn, đó là kể về cuộc sống con người, về “những gì đẹp đẽ và cao quý của những con người Việt Nam nói chung”. Quan niệm đó đã xác lập nên đặc trưng thế giới cổ tích của nhà văn. Cụ thể, trong thế giới cổ tích của ông, cái tốt, cái đẹp đối dù trải qua nhiều thử thách cam go nhưng cuối cùng vẫn chiến thắng cái ác và cái xấu. Lối kết thúc có hậu vốn đã xuất hiện trong truyện kể dân gian, được Phạm Hổ tiếp nối, phù hợp với mong ước của trẻ em về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc.
Với Phạm Hổ, đối tượng tiếp nhận Chuyện hoa, chuyện quả của ông chủ yếu là các em ở lứa tuổi nhi đồng. Vì thế, việc sử dụng môtip hóa thân là phù hợp, đem lại nhiều tác động tích cực cả về nhận thức lẫn tình cảm. Bởi vì, hầu hết các trường hợp hóa thân trong truyện của ông đều là người tốt. Cứ sau mỗi cuộc đấu tranh hay một nỗ lực nào đó thành công, con người lại tạo ra được một thứ quả, một loài hoa in đậm bóng dáng chủ thể sáng tạo. Chẳng hạn, hoa râm bụt là hình ảnh chiếc ô mà nhân vật Cành làm theo yêu cầu của Bụt, sau đó được Bụt “chấm chấm cái ô lên cái bụi cây, lá xanh biếc” và “Bụt chấm đến đâu thì hoa vụt hiện ra đến đấy, một loài hoa mới, hình giống chiếc ô, màu đỏ thắm, nhìn rất vui và rất hội hè” (Cái ô đỏ). Hay như cây quỳnh, cành giao là kết quả của mối tình đẹp đẽ giữa cô Quỳnh và anh Cao: “Hoa chỉ nở được một canh rồi rủ xuống, héo dần, ngắn ngủi như hạnh phúc của cô Quỳnh khi gặp được anh Cao trong hang đá. Trước khi nở, hoa nhìn khỏe như một chàng trai đang choàng một cái áo lông màu như lông cáo, nhưng lúc nở ra thì bên trong là những cánh hoa trắng muốt nhìn như gương mặt một cô gái vừa trắng, vừa xinh” (Cái áo choàng lông cáo)… Rõ ràng, cách giải thích như vậy sẽ hình thành ở các em niềm tin về mối quan hệ gần gũi, gắn bó hữu cơ giữa con người với các loài hoa quả. Chính con người đã làm ra hoa quả, và đến lượt mình, hoa quả trở lại phục vụ con người. Sâu xa hơn, Phạm Hổ muốn tạo cho các em ý thức về việc cần phải sống tốt, phải biết tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên.
Trong Chuyện hoa, chuyện quả, Phạm Hổ nói khá nhiều về lòng vị tha. Lấy ví dụ truyện Hai ông cháu và túp lều dột nát: Truyện giải thích về nguồn gốc cây tre, nhưng sức lay động của tác phẩm chính là lòng vị tha của những con người trong nạn đói. Cụ thể, khi tìm được cái ăn, người ông quyết mang về cho cháu với lí do cháu còn bé, không thể chịu đựng nổi cơn đói giày vò. Đứa cháu khi tìm được cái ăn cũng quyết mang về cho ông với một lí do tương tự: “Bông lúa này có thể giúp ông sống được trong vài ngày. Mình còn trẻ còn có sức chịu đựng. Ông già rồi, phải để dành bông lúa cho ông”. So sánh với truyện dân gian Sự tích chim hít cô, chúng ta sẽ thấy rõ sự đối nghịch trong cách ứng xử trước miếng ăn của các nhân vật trong hai tác phẩm. Ở truyện dân gian, cách ứng xử thể hiện rõ tinh thần vị kỉ (người cô ăn hết nồi cháo không chừa lại cho cháu, còn người cháu giận dữ, không mở lòng bao dung đối với cô); còn ở truyện Phạm Hổ thì ngược lại, ánh lên lòng vị tha, biết sẻ chia, cưu mang nhau để cùng đi qua nạn đói. Cuối truyện, khi tìm được cái ăn, đứa cháu nhớ ngay lời ông dặn là “tìm được cái gì ăn đừng quên bà con đang đói”, liền chủ động chia sẻ cho mọi người cùng cảnh ngộ. Như vậy, Phạm Hổ đã xử lí vấn đề theo hướng khác khi không xoáy sâu vào bi kịch mà tập trung làm nổi bật lên tình người trong nạn đói.
Phạm Hổ cũng đề cao đức hiếu sinh, ca ngợi những con người biết dành tình cảm yêu thương và che chở cho loài vật khi chúng đối diện với hiểm họa. Trong Chuyện hoa, chuyện quả, truyện Em bé hái củi và chú hươu con là một tác phẩm đặc sắc, có sự kết hợp hài hòa giữa cổ tích và đồng thoại. Truyện kể về tình bạn giữa em bé và chú hươu con, gắn với nhiều tình huống thử thách nghiệt ngã. Qua mỗi tình huống, cái tâm thiện của em bé phát lộ một cách sáng rỡ: lần thứ nhất, em động lòng trắc ẩn khi thấy hươu con bị thương, đã đưa hươu vào hang ẩn nấp và cứu chữa vết thương; lần thứ hai, em giúp hươu thoát khỏi cuộc vây bắt của lão đồ tể, dù biết sẽ gánh chịu đòn trừng phạt của chủ… Trong truyện cổ tích hiện đại, nhân vật loài vật ít được nói đến. Vì thế, Em bé hái củi và chú hươu con trở nên đặc biệt, có ý nghĩa giáo dục các em về lòng yêu thương loài vật. Có thể nói, chỉ trong mối quan hệ cộng sinh như vậy, tính thiện ở mỗi đứa trẻ mới được nảy nở và phát triển.
Khi viết Chuyện hoa, chuyện quả, Phạm Hổ chủ trương nói nhiều về vẻ đẹp của con người Việt Nam trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Ông gần như khai thác tất cả mọi mối quan hệ vốn có của con người: quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, làng xóm, ông chủ – người làm thuê, tướng giặc – người dân… Trong mỗi mối quan hệ như vậy, các phẩm chất tốt đẹp của con người được nhà văn chú ý làm rõ. Khái quát lại, có thể nói, hứng thú ngòi bút Phạm Hổ trước sau vẫn là vấn đề tình thương của con người. Ông ca ngợi, ông cổ vũ cho lối sống vị tình, vị tha; xem đó là chất keo dính kết con người với nhau một cách tích cực, là nền tảng tạo nên sự tốt đẹp cho gia đình và xã hội.
Cố nhiên, ông không vì thế mà không viết về cái ác. Bởi lẽ, cái ác là một thực thể luôn hiển hiện trong đời sống, là một “nghiệp ác” của con người. Mặt khác, cái ác là một phản đề, giúp nhà văn làm rõ hơn nữa giá trị của tình thương mà ông chủ trương theo đuổi. Trong truyện của ông, chúng ta bắt gặp không ít nhân vật ác, ví như: lão đồ tể (Em bé hái củi và chú hươu con), tướng giặc (Cô gái bán trầm hương), lão nhà giàu (Dòng sữa của người chị)… Ở đây, chúng tôi muốn nói kĩ hơn về cái ác trong truyện Cơm cho chó ăn thể hiện qua nhân vật người chị dâu. Khi thấy người em chồng từ quê ra, người chị dâu liền tìm cách đuổi về, nhà có cơm nhưng không cho ăn, lại em cho chó ăn… Kết cục, kẻ mang nghiệp ác đã bị trừng phạt, phải gánh lấy hậu quả khôn lường: “Cô ta ra cổng định gọi tìm chó thì trời sai thiên lôi đánh chết cô ta ngay ở cổng”.
Phạm Hổ rất ý thức kiến tạo phong cách nghệ thuật cá nhân. Tuy nhiên, ông cũng hiểu rõ rằng, mọi sự lặp lại đều có thể dẫn tới nguy cơ đơn điệu, nhàm chán. Vì vậy, khi chuyên tâm vào một đề tài hay một thể loại nào đó, ông luôn phải tìm kiếm các phương án xử lí khác nhau nhằm đảm bảo yêu cầu về tính mới lạ, hấp dẫn của nghệ thuật thơ văn dành cho thiếu nhi. Ở vấn đề này, nếu nghiên cứu kĩ, chúng ta sẽ thu nhận được nhiều kinh nghiệm sáng tác bổ ích từ ông.
LÊ NHẬT KÝ
(1). Nguyên Ngọc (1986), Phạm Hổ và những “Chuyện hoa, chuyện quả” của anh, Báo cáo Hội thảo về ba nhà văn viết cho thiếu nhi: Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài và Phạm Hổ, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội; in lại trong Chuyện hoa, chuyện quả, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1995, tr. 484-492.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét