Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

VĂN HOÁ DÂN GIAN BAO GỒM NHỮNG GÌ? - II




(LNK). Tiếp theo kì trước "VĂN HOÁ DÂN GIAN NHƯ TỰ NÓ TRONG ĐẠI CHÚNG (FOLK)", chúng tôi tiếp tục giới thiệu nội dung thứ hai trong bài viết của GS. Vũ Ngọc Khánh, bàn về các thành tố và phạm trù văn hóa dân gian. Việc xác định rõ các thành tố và phạm trù sẽ giúp ích rất nhiều trong vấn đề tiếp cận VHDG...

II. VĂN HOÁ DÂN GIAN: THÀNH TỐ VÀ PHẠM TRÙ

Trên đây đã nói, để nhận chân được kho tàng folklore Việt Nam, trước hết nên tìm xem folklore tự nó là thế nào? Một số hình thức (nói kể, ví, vè), một số thể loại (hát, hò, trò, múa, ca, vũ, lễ, nhạc, hoạ, hội) chỉ mới là những nhận xét bước đầu vội vã. Nếu có khả năng từ đấy mà nghiên cứu folklore, chắc cũng không đến nỗi vô bổ. Chẳng hạn lâu nay, chúng ta cứ thường phải cân nhắc: nên xếp ca dao, dân ca chung vào văn học dân gian hay nên tách ra? Lễ hội nên đặt vào mục nào trong thế hệ thống cấu trúc của folklore? Không phải là sự đòi hỏi theo thói quen lí luận hình thức. Mà sự thực, nếu sắp xếp lộn xộn thì tìm hiểu dễ lúng túng. Đôi trường hợp, cách hiểu dân gian không phải thiếu sự rạch ròi. Dân chúng không dùng các thuật ngữ ca dao dân ca. Những hoạt động của phường bát âm, và của các nghệ nhân chèo chải (có dùng đạo cụ hay nhạc cụ), người dân đều phân biệt được chứ không lẫn lộn.

Do vậy, vấn đề phân loại folklore ở nước ta cần được lưu tâm để đi vào nề nếp hơn: Một hệ thuật ngữ cho folklore Việt Nam chưa được đề xuất, do đó mà nhiều khi cùng trao đổi một vấn đề, người nghiên cứu vẫn chưa cùng nhau nhất trí về giới thuyết học khái niệm. Loại hình, thể loại, loại thể, thể tài, vv. đều dùng lẫn lộn. Từ chuyên môn, từ kĩ thuật, thuật ngữ... chưa có ranh giới rõ ràng. Đôi khi cùng một sự kiện hay hiện tượng có đến ba bốn thuật ngữ cứ được mặc nhiên xem là đồng nghĩa (cổ tích, truyện đời xưa, truyện cổ, truyện dân gian, vv.). Đã đến lúc nên giảm bớt tình trạng này. Có thể chưa đồng ý với nhau về cách chọn từ, nhưng cần nhất trí cao về yêu cầu đề xuất (1).

Đến nay, ta đã có thể nhận có môn folklore học ở nước ta. Đối tượng của môn khoa học này là folklore Việt Nam. Đó là một thực thể văn hoá tinh thần, vật chất biểu hiện bằng nhiều sự kiện, hiện tượng, hình thành một cách nguyên hợp, tổng hoà theo dạng thức “CHAPRIMOL” (sẽ nói sau) để thoả mãn nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ của cả cộng đồng dân tộc. Trong thực thể to lớn bao trùm đó, nhiều sự kiện, hiện tượng gần gũi nhau về hình thái, thể thức, tính chất,... có thể xếp chung vào những phạm trù nhất định. Folklore bao gồm tất cả các phạm trù ấy. Có những phạm trù có thể đứng tách ra vì có đời sống riêng của nó. Song nhiều phạm trù lại có thể nhích lại với nhau do có những tương quan hữu cơ, mật thiết. Khi đó, chúng ta có những bộ phận cấu thành lớn, có thể gọi là những thành tố folklore. Tất nhiên, các thành tố dù đã phân hoá ra, đều gắn bó với nhau trong tổng thể folklore.

Từng phạm trù, từng thành tố như vậy, sẽ bao gồm nhiều thể loại, và mỗi thể loại lại có thể gồm những tiểu loại hay đơn loại (cần phải dùng cả hai thuật ngữ này đồng đẳng với nhau). Dưới các tiểu loại, đơn loại sẽ là những đơn vị folklore. Bước đầu, nên tạm thống nhất mô hình cấu trúc như vậy, để ít nhiều có một ý niệm hệ thống cả một kho tàng dồi dào mà phức tạp.

Như vậy, folklore Việt Nam bao gồm nhiều phạm trù, thành tố. Có thể phân biệt đại khái như sau:

1. Folklore ngôn từ: cũng có thể mệnh danh là ngữ văn dân gian. Trong kho tàng folklore, thành tố này chiếm vị trí lớn nhất, có diện rộng, được ứng dụng thuận lợi trong các bình diện sinh hoạt. Nhưng đặc trưng, tính chất quen thuộc của folklore thường được gặp ở đây. Nó gồm hai phạm trù văn học và ngôn ngữ và thường vận dụng các loại hình tự sự, trữ tình để thể hiện. Từng thể loại ở trong những phạm trù ấy đều dồi dào khối lượng và phong phú nội dung. Có thể dựa theo cách gọi tên quen thuộc mà nhận ra:

Sáng tác dân gian văn xuôi gồm có: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, vv.

Sáng tác dân gian văn vần gồm có: trường ca, truyện thơ, vè, ca dao, đồng ca thơ ca dân gian…v.v...

Ở mỗi thể loại trên đây, có thể chia thành nhiều tiểu loại, đơn loại. Chẳng hạn trong thể loại cổ tích, có cổ tích thần kì, cổ tích sinh hoạt; trong truyện cười có khôi hài, tiểu lâm. Một số tên thể loại nêu ra trên đây cũng đang cần bàn bạc. Thí dụ dùng tên trường ca, rõ ràng là chưa ổn, vì chỉ có nghĩa hình thức mà thôi.

Nhiều người đã gọi những sáng tác loại này là sử thi (2), song phải tính đến nhiều trường hợp: anh hùng ca, sử thi mo, sử thi khan, bài ca nghi lễ, vv. Do đó mà phải đặt ra vài dấu hỏi: Thuật ngữ có thể chưa ổn, nhưng thực tế thì đồng bào các dân tộc ít người, có rất nhiều truyện thơ, mà ở dân tộc Kinh, thơ dân gian (không phải vè, không phải của các tác giả chữ nghĩa) quả là không hiếm. Cả truyện nôm bình dân, khuyết danh nữa, có nên đưa vào đây không?

Ở phạm trù ngôn ngữ, các thể loại cũng không ít: tục ngữ, phương ngôn, thành ngữ có thể quy nào một nhóm; Nhóm kia là những khẩu ngữ, tiếng lóng. Nói ngôn ngữ ở đây, là nói theo góc độ folklore, chứ không theo giác độ ngôn ngữ học, do đó trong quá trình thu nhập, nghiên cứu cần có mức độ, không đi quá vào chuyên môn của các chuyên gia. Tiểu loại câu đố, có gắn ít nhiều với văn học, song có thể phải xét riêng, vì nó thuộc một dạng thao tác khác.

Cùng trong thành tố folklore ngôn từ, có một số thể loại nên được xem là những phạm trù hoặc vì tính chất đặc biệt hoặc vì nội dung phong phú của nó. Đó là kho tàng giai thoại và kho tàng dân ca. Giai thoại là một thể loại sáng tác có ý nghĩa thu ngắn khoảng cách giữa văn học bác học và dân gian, gồm giai thoại văn học, giai thoại lịch sử, giai thoại folklore, lâu nay chưa khám phá hết những nét đa dạng của nó. Dân ca lại là một thể loại lớn, có vị trí trong cả hai thành tổ ngữ văn folklore và biểu diễn folklore. Nhiều đơn loại; tiểu loại làm nên sự phong phú của dân ca. Ở dân tộc Kinh là hát quan họ, hát phường vải, ca hò Đồng Tháp, vv. ở các dân tộc ít người là khắp, xường, rang, v cùng nhiều tiểu loại khác.

2. Folklore tạo hình, cũng gọi là Nghệ thuật tạo hình dân gian là một thành tố quan trọng của folklore. Thành tố này cũng gồm nhiều thể loại: Tranh dân gian (cũng gọi là hội hoạ dẫn gian), điêu khắc, kiến trúc và thủ công mĩ nghệ dân gian. Mỗi thể loại cố nhiên là có những tiểu loại thống thuộc. Còn phải trao đổi nhiều hơn để sắp xếp các tiểu loại này. Tạm thời trong kiến trúc có thể nhận ra kiến trúc đình miếu và kiến trúc nhà cửa. Trong điêu khắc, nên chăng gộp lại thành nhóm: Chạm khắc, sơn khảm, tạo đúc? Trong tranh dân gian, lâu nay thường quen gọi là những dòng trong thể loại tranh dân gian. Loại thủ công mĩ thuật dân gian, hiện tượng bề bộn hơn nhiều, vì tất cả các nghề thủ công, sử dụng nguyên liệu như: tranh, tre, mây, cói, đất, đá, sứ, sành, vàng, bạc, sắt, đồng và những nghề như thêu, may, đan, dệt, vv. đều cố gắng vươn lên trình độ nghệ thuật nhất định và có nội dung folklore không kém dồi dào, độc đáo.

3. Folklore biểu diễn, cũng gọi là Nghệ thuật biểu diễn dân gian. Chúng ta gặp trong thành tố này những thể loại nổi bật: múa dân gian, nhạc dân gian, trò diễn (sân khấu) dân gian. Phạm trù dân ca trên kia cũng có liên quan mật thiết, và khi cần cũng có thể xem là một thể loại trong thành tố này, với thuật ngữ hát dân gian, ta đã gặp khi tìm hiểu folklore Việt Nam như tự nó.

Cũng ở lĩnh vực này, có một trường hợp phải lưu ý. Múa rối, chèo, nhìn trong trật tự cấu trúc, chính là những tiểu loại trong

sân khấu dân gian. Song những đặc trưng và dung lượng của chúng đã vượt quá khuôn khổ của một tiểu loại, để thành những thể loại quan trọng. Đó cũng là một tất yếu bình thường. Ngoài ra, còn phải chú ý đến tuồng đồ cùng với tuồng pho, tuồng thầy. Đấy là những tác phẩm dù khuyết danh, cũng khó có thể xem là sáng tác dân gian. Song, chất dân gian và thủ pháp thủ thuật dân gian là rất rõ nét. Vì thế, trong những yêu cầu nghiên cứu nhất định, có thể nhìn tuồng đồ với tư cách là một thể loại sân khấu ít nhiều có tính dân gian.

4. Những phạm trù khác:

Đặt vào những phạm trù khác, vì không thể xem đây là những thành tố như ba trường hợp đã nói trên. Chúng không phải là bộ phận cấu thành, nhưng vẫn nằm trong tổng thể. Những hiện tượng folklore này, khi có cuộc sống độc lập riêng rẽ, khi lại thể hiện hoặc phát huy những mặt nào đó của từng thể loại trong thành tố nói trên, và có nhiều yếu tố của ba thành tố trên cùng được phát huy tác dụng trong môi trường hoặc trong quá trình diễn biến của hiện tượng. Sinh hoạt folklore thường cho thấy tình hình này, và chúng ta tạm tách ra thành những phạm trù riêng cho dễ sát. Có thể nhận ra nhiều dấu hiệu, song nổi bật nhất là những phạm trù sau:

a) Phong tục dân gian

Thật ra thì những vấn đề trong phong tục dân gian đều có thể thấy ở nhiều nơi. Những chuyện về nếp sống, cả sinh hoạt tinh thần, vật chất,vv. sinh hoạt tâm linh đều nhận ra ở nhiều phạm trù khác (dưới đây ta tách riêng ra, song vẫn là nằm trong phong tục). Tuy nhiên, có những sinh hoạt cụ thể, gắn bó với phong tục rõ ràng hơn, như chuyện kiêng kị (trong tín ngưỡng) đều là vấn của văn hoá dân gian cả.

b) Tri thức dân gian

Trên kia, ở phần nói về sự tích luỹ kiến thức của người dân qua các thời đại (vấn đề: gom, noi, bày), ta đã đề cập đến tri thức dân gian. Đây quả là vấn đề bao trùm, rộng lớn. Người dân hiểu không qua sách vở, lịch sử của đất nước, làng xóm, hiểu về địa lí, phong tục (con người và xứ sở), có những kiến thức dân gian Có thể nghiên cứu, tập hợp và phân loại các tri thức này, (nhưng chưa có ai làm được). Nhưng đi sâu từng thể loại, từng phạm trù có thể thấy tri thực dân gian là bách khoa. Nhiều trường hợp chỉ là do cảm tính, nhưng vẫn có giá trị khoa học nhất định.

c) Lễ hội dân gian

Trên kia chúng ta đã nói những hình thức như hát, hè rè. múa, ca, vũ, lễ, nhạc hoạ vv có thể được sử dụng thành từng cuộc, tuỳ theo yêu cầu sinh hoạt, yêu cầu trao đổi ở từng nơi, từng vùng. Có những dịp các cuộc này được mở rộng hơn, gần với những yêu cầu khác, hoàn cảnh khác, mà trở thành Hội. Hội có thể tiến hành chỉ trong phạm vi thoả mãn nhu cầu du hí, nhu cầu mĩ cảm, mà cũng có thể do yêu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục. Và lúc ấy thì những tác phẩm folklore xuất sắc, tiêu biểu của cả ba thành tố trên đây sẽ được khai thác để cho Hội được hoàn chỉnh. Có hội không có lễ, và ngược lại, song thông thường thì lễ hội vẫn thường gắn bó với nhau, để thành một thực thể thống nhất. Lễ hội là cần cho niềm tin cuộc sống con người. Lễ hội có quy cách, có nghi thức nhất định và gần như chỉ trong lễ hội, từ mới thấy hết giá trị của sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Rất nhiều lễ hội còn lưu được những lớp văn hoá xa xưa, tài liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử và tiến hoá sử.

* Trò chơi - Món ăn - Cây cảnh:

Thực ra đây là những phạm trù riêng, song có thể ghép chung, vì sự thực, trong cuộc sống văn hoá cộng đồng, chúng vẫn cùng trong một bình diện. Từ những thực tế ngặt nghèo, con người vươn lên, tìm cái đẹp, cái vui, họ đã tạo nên nhiều sáng kiến. Ở đây, rất nhiều trường hợp, dân gian đã khai thác những thành quả của các thành tố folklore, và cũng đã làm giàu thêm cho folklore. Tìm hiểu những phạm trù này cần có một sự tinh tế nhất định, để tránh đi ra ngoài phạm vi và tính chất dân gian. shodo ni

* Làng nghề:

Khái niệm làng nghề hình như chưa lần nào có dịp trao đổi, và cũng có thể gây ngỡ ngàng, khi thấy đặt nó thành một phạm trù trong tổng thể folklore. Nói đến thủ công mỹ nghệ dân gian, là đã phải đề cập đến làng nghề, nhưng thiết tưởng không nên hiểu nội hàm của thuật ngữ này một cách quá hạn chế. Làng nghề là chỉ vào những địa phương có nghề nông nghiệp hoặc phụ cận với nông nghiệp, chứ không chỉ là làng thủ công. Xét thủ công mĩ nghệ trong phạm vi thành tố folklore tạo hình, chỉ cần chủ yếu tiếp cận ở giác độ mĩ thuật. Còn ở làng nghề, phải quan tâm đến nhiều mặt khác. Có ở đây cả những yêu cầu mà một địa chí folklore đòi hỏi, có những hội hè, phong tục liên quan đến lễ hội, quan đến đến lịch sử và cả một kho tàng tư liệu ngữ văn liên nghề, đến nghệ nhân, đến chuyện huyền thoại của Bách nghệ tổ sư. Đây là chưa nói đến những gì cần viện trợ tới khoa folkore học để góp phần giải đáp về văn hoá làng bản ở nước ta nữa.

Chưa nắm hết kho tàng folklore Việt Nam, cũng chưa đủ khá năng để hiểu rõ tính chất và giá trị của từng sáng tác, bảng sắp xếp trên đây vẫn chỉ là một dự kiến để mong chờ chất chính. Hi vọng sẽ được thử thách kiểm nghiệm để trong tương lai, ta có thể xây dựng một hệ thống phân loại folklore thích hợp hơn.

Bảng hệ thống tóm tắt

Những điểm được trình bày trên đây quá dồi dào, có nhiều thuật ngữ chưa quen lắm với cách hiểu phổ thông lâu nay. Chúng tôi xin đưa thêm một bảng hệ thống đối chiếu dưới đây, để giúp vào một cái nhìn tổng quát.

Nhìn chung nội dung của văn hoá dân gian:

I. Cách chia của dân:

Văn hoá dân gian như tự nó

Đối chiếu với cách gọi quen thuộc

Nói, kể...

Ví, vè, hát, hò (ca, nhạc)..............

Trò, múa (Vũ)..

(Hoa)...

Văn học dân gian; tục ngữ, cổ tích,

tiếu lâm.

Văn học dân gian: ca dao, dân ca, vè, nhạc.

Sân khấu dân gian: trò diễn, chèo,

múa

Mĩ thuật dân gian: tranh, tượng, điều

khác

II. Cách phân loại khoa học

(thành tố, phạm trù)

Thành tố: Folklore ngôn từ (ngữ văn dân gian)

Folklore biểu diễn.....

Folklore tạo hình.......

Phạm trù: Tri thức dân gian.......

Phong tục dân gian.

Lễ hội dân gian.......

Văn học dân gian (các loại như trên)

Văn học diễn xướng - Nhạc dân gian, sân khấu dân gian - múa dân gian

Mĩ thuật dân gian (tranh)- Kiến trúc điêu khắc dân gian

Nhiều vấn đề: kiến thức, tập tục, trò chơi, cây cảnh, vv.

VŨ NGỌC KHÁNH

Nguồn: Văn hóa dân gian, Nxb Nghệ An, Vinh, 2003.

Chú thích:

(1) Cuốn Từ vựng thuật ngữ folklore Việt Nam của chúng tôi đã được xuất bản (Văn hoá 1995)

(2) Bản thân chúng tôi cũng đã gọi bản mo Đẻ đất đẻ nước (Mường) là sử thi từ những năm 1973, khi sự nhìn nhận này chưa phổ biến lắm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét