Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

TRÊ CÓC NGÀY NAY





(LNK). Nhà văn Viết Linh là tác giả của nhiều truyện đồng thoại khoa học. Qua tác phẩm "Trê Cóc ngày nay", ông cung cấp cho trẻ em một số tri thức về đặc điểm tự nhiên của loài cóc, thông qua một lối kể chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm...

Ở một cái ao kia, có hai vợ chồng bác Trê ăn ở hiền lành, chỉ buồn một nỗi mãi vẫn không có con.

Một hôm, hai bác đi kiếm ăn chợt nghe thấy phía cây chuối có tiếng quẫy nhẹ, lại gần thì ra hàng đàn cá con mới nở trên một đám cỏ nước.

Ôi! Đàn con mới kháu khỉnh làm sao! Đúng dòng dõi nhà Trê rồi: cái đầu cũng đen đen bóng nhẫy, lại bèn bẹt, cái đuôi luôn quẫy mạnh không lúc nào chịu yên. Chắc bố mẹ chúng vừa quanh quẩn đâu đây. Bác Trê chồng ra sức gọi nhưng chẳng thấy ai thưa.

- Phải đưa ngay đàn con này về nhà mới được kẻo rắn bắt mất thì nguy! - Nói với chồng xong, bác Trê gái quay sang vui vẻ bảo đàn cá: - Nào các con về nhà thôi!

Nhà Trê ở không rộng. Bác trai tha mớ rong về chữa thành mấy chục cái nôi xinh. Trong lúc đó, bác Trê gái hì hục dọn dẹp nhà cửa.

Thỉnh thoảng vợ chồng lại bảo nhau:

- Đúng là con Trời cho.

Từ ngày về ở với bố mẹ nuôi, đàn "Trê con" lớn lên như thổi. Nhìn đàn con kháu khỉnh ngoan ngoãn, vợ chồng bác Trê quên hết cả mệt nhọc. Vào những đêm trăng sáng tỏ, bác trai còn vuốt râu nghêu ngao hát:

"Trong nhà mà có trẻ thơ

Như chim ríu rít, líu lo trong vườn...”

Hàng xóm chung quanh nghe tiếng hát, ai cũng mừng cho bác Trê đúng cảnh "con ngoan hạnh phúc gia đình". Mà đàn Trê con ngoan thật: học hành chăm chỉ, lễ phép, gặp ai cũng chào hỏi đon đả.

Một hôm, ngắm nghía con, bỗng bác Trê gái hốt hoảng chạy lại bảo chồng:

- Bố nó ơi, sao con lại có chân nhỉ?

Bác trai ngạc nhiên hỏi lại:

- Thử xem lại xem, hay là là mẹ nó lầm với vây?

- Nhầm là thế nào! Chân là chân! Vây là vây! Bố nó lại gần mà xem.

Đúng là chân thật! Bác Trê mở hòm lục quyển gia phả ba đời nhà mình ra xem thì không thấy bất cứ chỗ nào bất cứ chỗ nào ghi tổ tiên Trê có chân bao giờ cả.

Bác Trê trai vội mời thầy thuốc đến. Sau khi khám kỹ, bác sĩ Chép hí hoáy ghi vào đơn thuốc:

"Tên người bệnh: Nòng nọc Cóc con.

Căn bệnh: Sắp hết thời kỳ có đuôi.

Cách chữa: Đứt đuôi thì lên sống trên can".

Vừa nghe thấy hai tiếng "Cóc con", vợ chồng bác Trê cùng ngất xỉu đi. Bác sĩ Chép phải tiêm thuốc, lay mãi mới tỉnh. Chờ vợ chồng chủ nhà hoàn hồn, bác Chép mới khẽ an ủi:

- Hai bác buồn làm gì! Con người khác mình nuôi thì cũng như con mình.

Vợ chồng Trê dần dần hiểu ra.

Thỉnh thoảng thấy hai bác Trê buồn, đàn Các con lại thỏ thẻ:

- Bố mẹ đừng buồn! Lúc nào chúng con cũng biết ơn và yêu quý bố mẹ.

Nhưng kể từ đó, mấy anh chị em Cóc cũng tự đặt ra câu hỏi: "Vậy thì bố mẹ thật của mình giờ ở đâu?".

Còn vợ chồng bác Trê cảm thấy hình như trước sau rồi đàn Cóc cũng sẽ ra đi và hai bác lại trở về cuộc sống buồn tẻ. Hàng xóm, những đêm trăng sáng, không nghe thấy tiếng hát quen thuộc của bác Trê trai nữa.

Một buổi tối, chờ các con ngủ yên, bác Trê trai mới sang nhà bác Chép, đặt làm hộ một cái máy đặc biệt. Từ đó, vợ chồng nhà Trê càng ra sức chăm sóc đàn con hơn.

Ngày tháng trôi qua. Đàn Cóc con lớn dần. Khi đủ bốn chân, các chú rụng đuôi. Đúng hôm đó, Cóc cả thưa với bố mẹ:

- Bây giờ chúng con thở bằng phổi thì không thể sống dưới nước được nữa. Chúng con phải lên cạn và đi tìm bố mẹ đẻ.

Bác Trê gái nghe đến đó thì không sao cầm nổi nước mắt. Lát sau, bác mới cố nói

lên lời:

- Nhưng giờ biết bố mẹ các con ở đâu mà tìm?

Cóc cả đáp:

- Chúng con hãy cứ biết lên bờ cái đã, rồi sẽ hỏi sau.

Ngay đêm hôm đó, bác Trê gái thức suốt đêm để gói bánh cho các con ăn đi đường. Hàng xóm biết tin cũng sang thăm rất đông. Thầy thuốc Chép cho mỗi cô chú Cóc con hai hộp dầu xoa cà cuống, mười viên cảm cúm bèo dâu. Sợ các cháu lần đầu lên sống trên mặt đất dễ cảm lạnh, bác Nhện nước đến tặng mỗi cô cậu một chiếc khăn quàng cực mỏng, loại có pha ni lon không thấm nước. Bác Chèo đò hứa sẽ đưa họ tới bất cứ cái bến nào xa nhất ở ao này.

Xem chừng chỉ có bác Trê trai là cứ ngồi thừ một chỗ, vê vê mấy sợi râu vểnh, dáng buồn rười rượi, buồn đến nỗi bác Cà cuống đặt chai rượu đánh kịch xuống trước mặt, đôi râu Trê vẫn không động đậy.

Đúng lúc đàn con xếp hàng lên đường, bác Trê trai mới vào nhà đưa ra một chiếc máy mới tinh gọi là "Phụ mẫu kế". Bình thường kim chỉ số không. Nếu dò đúng bố, kim đồng hồ sẽ nhích về bên trái và cha thì chỉ vào chữ "phụ", nếu là mẹ, kim chỉ chữ "mẫu" phía bên phải và có chuông báo hiệu.

Phút chia tay bắt đầu: ôi cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!

Bác Trê gái gục xuống khóc. Thím Giếc phải dìu bác vào buồng. Đàn cóc con vừa đi được một đoạn thì bỗng bác Trê gái từ trong buồng vụt chạy ra gọi thất thanh, lạc cả giọng. Thì ra bác vừa tìm thấy ở đống nôi cũ xưa kia một nửa cái thẻ bằng vỏ hến trên có những nét khắc loằng ngoằng không ai đọc nổi.

Máy móc đôi khi cũng trục trặc. Biết đâu mảnh vỏ hến này lại chẳng giúp cho đàn con bác tìm thấy bố mẹ đẻ?

* *

*

Tại nhà bác Cóc, hai vợ chồng đang ngồi cộng sổ để tính xem số sâu họ diệt được

trong ngày là bao nhiêu, chợt bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc vọng sang. Nhìn vào cuốn lịch có đánh dấu cẩn thận, Cóc vợ bảo chồng:

- Các con mình không khéo giờ sắp nhảy lên bờ rồi cũng nên. Phải đi đón gấp mới được!

Hai vợ chồng bác Cóc hối hả tới bờ ao dưới gốc chuối. Nhìn xuống đám cỏ nước, không thấy một cái vỏ trứng nào, bác Cóc gái oà lên khóc. Bác cho là Rắn nước hoặc cá dữ đã đến bắt đàn con mình rồi.

Bác Cóc trai an ủi vợ:

- Bà nó đừng lo, không việc gì đâu! Tôi đã nhắm trước rồi: chỗ này gần bờ ao, Rắn nước đâu có dám lảng vảng lại gần. Còn mấy mụ cá Chuối thì giờ đang say sưa với đàn con nhỏ dưới gốc sung đâu có dám đi xa ra đây.

Đưa vợ về nhà xong, bác Cóc trai nhảy thẳng tới trạm liên lạc gần đấy nhất gặp chú Nhái trưởng trạm, chìa tấm ảnh chụp những quả trứng Cóc ra bảo:

- Các cháu nhỏ bị lạc, tôi đến nhờ chú tìm hộ.

Xem xong ảnh, chú Nhái lắc đầu bảo:

- Trứng Cóc thì chỉ bị mất hoặc vỡ chứ không thể lạc được. Phải đúng ảnh các cháu cơ.

"Lúc ấy các con mình còn trứng nước, kiếm đâu ra ảnh chụp bây giờ? Rõ gay quá! Mà không có ảnh thì biết đâu lần mò? À, thôi mình nghĩ ra rồi: con cái thường giống bố mẹ!". Bác Cóc trai sực nhớ ra tấm ảnh mình chụp hồi là chú Cóc con mới nhảy lên sống trên bờ, kèm theo cả ảnh bác gái hồi bé. Bác vội về nhà lấy ảnh đem đến luôn cho chú Nhái.

Nhái in ảnh ra thành nhiều chiếc cho dán khắp nơi, nhất là những chỗ đông. Ngay sáng hôm sau, tất cả các báo chí đều đăng tin "Tìm trẻ lạc". Loa truyền thanh nói ra rả suốt ngày.

Ấy vậy mà hai hôm sau vẫn chẳng thấy tin tức gì, bác Cóc gái càng khóc khoẻ. Bác bảo chồng:

- Lần sau, cứ đẻ ở nhà cho xong.

Bác Cóc trai khẽ lắc đầu:

- Không được! Họ nhà mình phải đẻ trứng dưới nước vì khi trứng nở thành Nòng nọc, các con vẫn phải thở bằng mang. Mãi tới khi mọc chân, rụng đuôi thở bằng phổi, con cái mình mới lên sống trên cạn được.

Không thấy vợ nói gì, bác Cóc trai lại an ủi tiếp:

- Bà nó đừng lo! Không có chuyện gì đâu! Mai kia các con nó kéo nhau về lại đông vui phải biết.

Bác Cóc gái vẫn chưa hết lo:

- Ừ thì cứ cho là cả lứa trứng không việc gì nhưng khi các con nó nhảy lên bờ, ngộ nhỡ...

Bác không dám nói tiếp là: rắn bắt, chim chóc mổ... nhưng bác Cóc trai cũng hiểu ra, bảo:

- Làm thế nào mà nó bắt hết được cả đàn. Thế nào cũng phải có đứa sống sót về đây báo tin chứ! Sớm muộn, các con chúng ta sẽ về nhà, đấy rồi bà xem.

Mãi lúc này, bác Cóc gái mới tạm yên lòng, nhưng đêm đến vẫn thao thức không ngủ được.

Lại nói về đàn Cóc con, chia tay với bố mẹ nuôi cùng các cô bác láng giềng dưới ao xong, các cô chú phải tự săn mồi lấy vì thức ăn đem theo đã cạn, không để được lâu. Phong cảnh trên mặt đất đẹp thật, cái gì cũng lạ. Dưới ao chỉ có bèo, rong và đám cỏ nước, còn trên mặt đất không biết cơ man nào là cây cối có cả hoa, bướm, cả chim chóc ríu rít trên cành. Mặt trời ở đấy cũng lạ, vừa tròn vừa đỏ, lại nóng rát hơn ở dưới nước. Thức ăn cũng lắm, ngoài sâu bọ ra còn có cả ruồi bay và nhất là những con giun bé tí xếp vào loại "đặc sản".

Cả đàn Cóc say sưa săn mồi. Ăn no rồi, tối đến lại kiếm một cái hang nào đó dưới gốc cây mà ngủ. Cũng có đôi chú vô tư mải vui quên hết sự đời. Nhưng hầu hết đều nhớ đến việc đi tìm bố mẹ. Hôm đầu gặp bác Ếch cốm, cả đàn Cóc mừng quá cứ tưởng đó là bố mình nhưng khi Cóc cả mở cái máy "phụ mẫu kế" ra, kim đồng hồ vẫn nằm yên không nhúc nhích.

- Hay là máy hỏng?

Chú Cóc hai hỏi thế nhưng Cóc cả đã gạt đi chỉ vào tấm áo khoác ngoài của bác Ếch cốm khá đẹp khác hẳn tấm áo xù xì của mình.

Sau đó các chú Cóc bàn nhau cứ nhằm phía mặt trời mọc mà tiến, dọc đường sẽ hỏi thăm dần. Hình như mồi săn mỗi ngày một hiếm đi, nước cũng thiếu, da dẻ se lại tưởng chừng giá lúc này được nhảy tõm xuống ao mà tắm một cái thì thú biết mấy.

Tới một bãi cỏ rộng, đàn Cóc sướng quá, lao luôn vào kiếm mồi no nê rồi lăn ra ngủ. Riêng có Cóc cả thỉnh thoảng vẫn lôi "phụ mẫu kế" ra xem. Rồi một hôm, tới gần một bụi dứa, kim đồng hồ tự nhiên lại hơi ngọ nguậy nhưng không dứt khoát chỉ vào chữ nào. Mọi người bàn nhau cố đi dấn thêm một tí nữa. Tới một gốc cây sim, thấy có ảnh dán "Tìm trẻ lạc". Cóc cả vội reo lên:

- Đúng bố mẹ cũng đang tìm chúng mình rồi! Phải cố lên tí nữa!

Chủ Cóc út nói:

- Hôm nay mệt lắm rồi! Chúng ta nên nghỉ lại đây thôi! Em không thể nào cất nổi bước chân nữa.

Cóc hai bảo:

- Chắc lúc này đây, ở nhà bố mẹ đang mong chúng ta hàng ngày hàng giờ. Chậm

lúc nào lo lúc ấy.

Cóc cả tiếp lời luôn:

- Đúng thế đấy! Sắp đến nơi rồi! Ta cố lên, ai không đi nổi thì người khác cõng hoặc dìu nhau đi.

Thế là trong đêm tối, đàn cóc con lại mò mẫm lên đường. Đi được một đoạn, thấy giữa đám cỏ may có hai đốm sáng xanh lè. Chính Cóc út nom thấy đầu tiên, chú reo lên:

- Đúng bố mẹ thắp đèn chờ chúng mình. Cóc cả vội lấy máy ra xem: kim đồng hồ vẫn không nhúc nhích.

- Không phải!

Cóc cả vừa nói xong bỗng thấy hai chấm xanh vươn lên cao rồi tắt ngấm, một ngọn cỏ rạp xuống, có tiếng kêu thất thanh rồi tiếng chân nhảy loạn xạ:

- Rắn! Rắn...

Bỗng Cóc cả ngã giúi giụi xuống. Hình như có cái gì vừa rơi xuống mình. Thì ra là một chú Nhái đang chạy rắn.

- Các em chạy mau lên!

Cóc cả chỉ kịp kêu như vậy rồi ra sức nhảy theo chiều ngược hướng hai chấm xanh, nhảy thục mạng. Đàn Cóc em ra sức đuổi theo sau. Chạy mãi, chạy mãi... Cóc cả dừng lại lắng tai nghe. Có tiếng quăng quật dữ dội, những ngọn cỏ rạp xuống. Lão Rắn vẫn ra sức đuổi theo sau khi đã nuốt chửng một chú Nhái. Có lúc lão quỷ quyệt trườn bò lặng lẽ theo dõi con mồi. Lớ ngớ thế nào lại có một tên Chuột mò tới. Hắn chưa kịp kêu chít chít thì lão Rắn đã ngoạm lấy chân...

Đàn cóc ra sức nhảy cho tới khi không còn nghe thấy tiếng kêu của tên Chuột mới thôi.

Đến một bụi sim. Cóc cả dừng lại thở, đếm lại các em xem có đủ không rồi giở chữ "phụ". Đàn cóc đang ngơ ngác thì Cóc mẹ bảo:

- Bố các con về!

Đàn Cóc nhìn ra, cất tiếng reo:

- Bố! Bố ạ!

Bác Cóc trai chỉ khẽ gật đầu rồi đi vào nhà trong lặng lẽ mở hòm lấy ra một nửa cái thẻ bằng vỏ hến, chắp đúng với nửa khác của Cóc cả chìa ra, chắp thành ba chữ "Cậu ông Trời".

Biết chúng là con mình, mãi lúc này Cóc bố mới ôm Cóc út vào lòng, đưa chân quệt nước mắt.

* *

*

Tin vợ chồng bác Cóc tìm thấy con chẳng mấy chốc mà lan đi khắp nơi. Hàng xóm láng giềng kéo nhau đến khá đông. Nghe đàn Cóc con kể chuyện sống dưới ao được bố mẹ nuôi chăm sóc thế nào, ai cũng khen vợ chồng bác Trê tốt bụng.

Đêm hôm đó, ngọn đèn nhà bác Cóc mãi gần sáng mới tắt.

Chờ khách khứa về hết, con cái ngủ say, vợ chồng nhà Cóc mới bàn nhau đền ơn bác Trê. Suy đi tính lại mãi thấy làm dăm mâm cỗ mời khách đến là đẹp nhất. Gạo nước nhờ mấy cô Cào cào giã hộ, dao thớt đã có Bọ ngựa, củi lửa giao cho anh Bổ củi, riêng việc nấu nướng phải đi mời bằng được mấy tay thợ nấu lành nghề ở quán Gỏi nhà Bọ muỗm mới xong. Thực đơn gồm những món gì, quà cáp biếu xén ra sao. Vợ chồng vừa bàn xong chợt nghe thấy tiếng họ sù sụ ở phòng trong. Thì ra Cóc cụ hãy còn thức, giờ mới lên tiếng:

- Bác Trê thở bằng mang chứ không phải phổi như chúng ta thì làm sao lên bờ ăn cỗ được.

Thật quá bất ngờ! Thế là đổ nhào hết!

- Không ăn mặn được! Liên hoan nhè nhẹ thôi!

Thường ngày Cóc cụ rất ít nói, nhưng một khi Cóc đã mở miệng thì “chắc như đinh đóng cột!”.

Thế là chuyện cỗ bàn đành xếp lại, thay vào đó là tối liên hoan ở bờ ao gần cây rơm. Sân khấu là một gốc xoan vừa bị hạ. Một chiếc dương cầm làm bằng nửa cái hương sen được đưa tới. Dàn nhạc kèn hơi do Sâu kèn cùng mấy bác Nhái lo liệu. Bộ gõ đã có ễnh ương. Phần ánh sáng sân khấu giao hẳn cho họ hàng Đom đóm.

Một chú Nhái bén đem giấy mời xuống ao đưa bác Trê trong lúc chính bác Cóc trai soạn chương trình và tự tay viết một vở kịch ngắn.

Đúng giờ khai mạc, cuộc vui bắt đầu, Khán giả chỉ có hai vợ chồng bác Trê từ dưới ao nhìn lên. Tiết mục nào hay, hai quý khách lại vểnh râu lên vuốt. Họ không có thói quen vỗ tay như người xem ở trên cạn.

Xem chừng bác Trê trai thích nhất điệu múa tập thể của đàn Cóc con. Chúng nhảy ra sao, rình và bắt mồi như thế nào. Bác thật không ngờ lũ con mình lại có tài phóng lưỡi ra để tóm gọn mồi từ xa đến thế.

Trong lúc đó, bác Trê gái lại thú nhất bản đồng ca:

"Chúng cháu là Cóc con

Tuy rằng tuổi còn non

Nhưng rất quý bố mẹ

Đẻ ra, nuôi lớn khôn"

"Thì ra bố mẹ đẻ cũng như bố mẹ nuôi, đàn Cóc nhỏ đều quý như nhau cả! Thế mới biết vợ chồng bác Cóc khéo dạy con thật!

*

* *

Nghe tin hai bác Trê đi dự liên hoan về, hàng xóm vội kéo đến thăm. Cả Cà cuống lẫn Chèo đò không sao nhận ra được Trê nữa vì nom họ đẹp hẳn lên: cái đầu không bẹp đen sì mà lại trắng và tròn.

Có người thì cho rằng trước lúc chia tay, vợ chồng bác Cóc có tặng Trê hai viên thuốc uống vào thì dù đầu bẹp cũng phình ra giống như quả bóng nhựa bị méo thả vào nước sôi vậy.

Lại có người cho rằng: đó là tặng phẩm của đàn Cóc con biếu bố mẹ nuôi. Hai chiếc mũ làm bằng hai nửa cái trứng nhện, nói cho đúng hơn là cái bao đựng trứng nhện tất nhiên cũng phải gia công thêm cho thành một cái mũ.

VIẾT LINH

Nguồn: Những cuộc thi tài, Nxb Lao động, 2004.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét