Trong bối cảnh truyện cổ tích mới viết cho
thiếu nhi ở Việt Nam đang dần thưa vắng và ít đặc sắc như hiện nay, Nguyên
Hương - nữ nhà văn đến từ Đắk Lắk - được xem là một hiện tượng.
Chỉ trong vòng
hơn nửa năm, từ cuối 2014 đến đầu 2015, Nguyên Hương có liền 40 truyện cổ tích
mới, phân bố trong 8 tập truyện, lần lượt là Viên ngọc bùa mê, Bịt
mắt bắt kẻ nói dối, Gương thần, Tấm thảm bay, Đôi hài vạn
dặm, Chiếc áo tàng hình và Vùng đất bị phù phép, tất cả đều
do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành. Theo TS. Lê Nhật Ký (ĐH Quy Nhơn), người có thâm
niên trong việc nghiên cứu văn học thiếu nhi ở Việt Nam, truyện cổ tích mới của
Nguyên Hương rất đặc sắc. Một trong những phương diện làm nên nét đặc sắc cho
cổ tích Nguyên Hương chính là nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Nguyên Hương sử dụng những công thức có sẵn
trong kho tàng văn liệu dân gian như các kiểu mở đầu, kết thúc và hàng loạt
những mô típ nghệ thuật để xây dựng cốt truyện. Tuy nhiên, chị cũng có nhiều
sáng tạo để giúp câu chuyện trở nên gần gũi với cuộc sống hiện đại, hướng tới
chức năng giáo dục tuổi thơ như tinh thần chung mà thể loại yêu cầu. Điều này
thể hiện khá rõ nét trong cách mở đầu, phát triển và kết thúc mà Nguyên Hương
thể hiện trong nhiều tác phẩm của mình.
1. Mở đầu câu chuyện
Đại đa số truyện cổ tích
Việt Nam đều mở đầu bằng mô típ quen thuộc về thời gian, không gian
và nhân vật: “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ, có một chàng trai/ cô gái
kia…”. Công thức mở đầu như vậy cho thấy nghệ thuật dẫn truyện đặc sắc của tác
giả dân gian. Nó đưa người đọc bước vào một thế giới cách xa hiện tại về không
gian, thời gian - đó là một miền cổ tích xa lạ có nhiều sự việc ly kỳ, hấp dẫn.
Truyện cổ tích Nguyên Hương không đi theo
lối mở đầu ấy. Khảo sát 40 truyện của nữ nhà văn, không có tác phẩm nào bắt đầu
bằng cụm từ “ngày xưa” hay “ngày xửa ngày xưa”. Theo quan niệm dân gian, cái gì
càng xưa thì càng có giá trị, đáng tin tưởng và bài học rút ra càng có ý nghĩa.
Vì thế, tác giả dân gian đẩy câu chuyện ra khỏi hiện tại và đưa vào quá khứ -
cái thời không ai biết để bàn cãi, bắt bẻ là câu chuyện ấy đúng hay sai. Có như
vậy, tác giả mới dễ bề hư cấu, tạo ra một thế giới kỳ ảo lung linh đầy hấp dẫn.
Nguyên Hương muốn đưa câu chuyện trở về gắn bó với đời sống hiện tại nên chị
không sử dụng lại môtip giới thiệu thời gian như trong truyện cổ dân gian. Điều
này cũng khác với Phạm Hổ trong tập truyện Chuyện hoa chuyện quả.
Truyện của Nguyên Hương thường mở đầu rất
bất ngờ. Chẳng hạn: “Đang hái dừa, bỗng chàng Linh nghe tiếng chó sủa và tiếng
la hét “ôi, ôi, ôi…” (Công chúa ngủ trong vườn); “Trước khi vo gạo nấu
cơm, người mẹ thường bốc một nắm gạo cho vào hũ” (Cha, mẹ, con và cá vàng);
“Sau khi than khóc người vợ yêu dấu bị trượt chân té xuống hồ rồi không bao giờ
quay về nữa, nhà vua thấy cần phải có một hoàng hậu khác để giúp ngài chăm sóc
công chúa” (Gương thần)… Cách dẫn nhập như vậy, tuy không tạo ra không
khí cổ xưa quen thuộc nhưng lại có tác dụng khơi dậy sự tò mò và dẫn dắt các em
bước ngay vào thế giới hấp dẫn của câu chuyện.
Không gian trong truyện cổ tích Nguyên
Hương cũng mang tính chất phiếm chỉ quen thuộc được kế thừa từ truyện cổ tích
của dân gian. Câu chuyện xảy ra trong khu rừng hay một ngôi làng nào đó mà ta
không xác định được nó ở đâu, nó như thế nào. Tuy ở một số truyện, địa điểm xảy
ra có tên gọi xác định như làng Lụa (Vì sao con Nhện có 8 chân) hay làng
Dép Đứt (Đôi hài vạn Dặm)… nhưng đó cũng chỉ là những không gian phiếm
định. Sử dụng không gian phiếm chỉ có tác dụng cách ly không gian người nghe và
không gian câu chuyện để thuận lợi trong việc hư cấu, tạo ra một chân trời mới
mẻ kích thích trí tò mò của người nghe. Vẫn là không gian của một làng nọ, vùng
kia rất mơ hồ nhưng người đọc tìm thấy bóng dáng của cuộc sống thường nhật vừa
gần gũi, vừa thân quen trong các câu chuyện của tác giả. Nói cách khác, không
gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Nguyên Hương mang tính phiếm chỉ nhưng
không có vẻ huyền bí, xa lạ. Đó thường là bối cảnh sinh hoạt hàng ngày, gắn với
những hoạt động như đánh cá, thêu thùa, may vá, hái nấm, chăn trâu… Có thể nói,
với cách dựng không gian như thế, truyện cổ tích hiện đại của Nguyên Hương rất
đậm đà màu sắc thế sự, gần gũi với trẻ thơ.
2. Diễn biến câu chuyện
Thông qua cuộc đời và sự phát triển tính
cách của nhân vật chính, truyện cổ tích phản ánh quan điểm, tư tưởng của nhân
dân đối với hiện thực cuộc sống. Câu chuyện xây dựng với rất nhiều biến cố, thử
thách nhân vật chính và kết thúc khi xung đột, mâu thuẫn bị triệt tiêu, để lại
trong lòng người đọc một sự thỏa mãn và niềm tin về chiến thắng tất yếu của cái
thiện đối với cái ác, của cái tốt đối với cái xấu.
Nguyên Hương học tập khá nhiều từ cách xây
dựng cốt truyện dân gian. Một số truyện của chị được viết dựa trên sự mô phỏng,
phóng tác các câu chuyện cổ tích quen thuộc của Việt Nam và thế giới như: Ăn
táo trả vàng, Khăn xanh khăn đỏ, Biến nhập biến xuất,
Gương thần, Đôi hài vạn dặm, Công chúa ngủ trong vườn,
Nàng Út ống trúc… Chỉ với cách đặt nhan đề này, chị đã tạo được sự tò mò
nơi trẻ nhỏ. Liệu nàng Út trong ống trúc này có giống với nàng Út trong ống tre
hay không, sao công chúa không ngủ trong rừng mà ngủ trong vườn hay Khăn Xanh
là ai, có quan hệ gì với cô bé Khăn Đỏ bị sói ăn thịt?... Trẻ càng tò mò thì
chúng càng say mê, hứng thú với câu chuyện được kể. Có thể xem đây là điểm sáng
tạo độc đáo của Nguyên Hương.
Trong lúc dựng truyện, Nguyên Hương luôn
hướng tới đối tượng trung thành là các bạn đọc nhỏ tuổi của mình. Vì vậy, trong
tập truyện, tác giả ít khi đề cập đến những mâu thuẫn giai cấp sâu sắc như
trong truyện dân gian. Nguyên Hương không miêu tả những mụ dì ghẻ táng tận
lương tâm, hết lần này đến lần khác hãm hại con chồng như Tấm Cám; không
có những người anh nhẫn tâm đẩy em mình vào cảnh khốn cùng, “không mảnh
đất cắm dùi” như người anh xấu xa trong Cây khế… Vẫn là môtip chia của
nhưng trong Ăn táo trả vàng, người anh lại dùng cách
oẳn tù tì để phân thiệt hơn chứ không dùng uy quyền của kẻ làm anh và anh ta
cũng không chiếm trọn gia tài của bố mẹ. Dù tham lam may túi chín gang để đựng
vàng nhưng người anh vẫn không quên cầm thêm túi ba gang của cậu em để đem về
cho em chút ít của cải. Hay, mụ phù thủy trong Gương thần, dù không ưa
gì nàng công chúa dễ thương nhưng cũng chỉ biến nàng thành vịt chứ không năm
lần bảy lượt tìm cách “diệt cỏ tận gốc” như trong Bạch Tuyết và bảy chú lùn.
Yếu tố kì ảo cũng được tác giả sử dụng
trong nhiều truyện. Trong cuộc sống, nhất là dưới chế độ phong kiến nhiều bất
công, những người hiền lành, lương thiện làm sao có thể chiến thắng được cái
ác, cái xấu và sống hạnh phúc. Tác giả dân gian, chỉ có thể dùng yếu tố thần kì
để trợ giúp cho những con người yếu đuối vượt qua khó khăn và đi đến hạnh phúc trọn
vẹn. Theo khảo sát, có 31/40 truyện của Nguyên Hương có xuất hiện yếu tố thần
kì. Ở một số truyện, yếu tố thần kì giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển
cốt truyện và sự chiến thắng của những nhân vật thiện lương (Tấm thảm bay,
Vịt đẻ trứng vàng, Gương thần, Cây bút kì diệu…). Tuy
nhiên, ở một số truyện khác, hạnh phúc của nhân vật là do chính họ kiếm tìm và
đạt được chứ không phải do thần, tiên hay một lực lượng siêu nhiên nào đó mang
lại. Trong Sáu lần biến hóa, Bà Tiên đã giúp Kha biến hóa nhiều lần theo
nguyện vọng của chàng. Nhưng lúc mâu thuẫn đến cao trào, con ngựa (hóa thân của
chàng Kha) không thể giải thích cho vua hiểu những gì đang diễn ra thì bà tiên
già đã ngủ say. Kha đành phải dùng sự bình tĩnh và gan dạ của mình để giải
quyết. Hay trong Viên ngọc bùa mê, nàng My ban đầu làm hoàng tử chú ý
nhờ phép màu của viên ngọc, nhưng cái quyết định nàng trở thành vợ hoàng tử
không phải do viên ngọc mà là do chính tấm lòng thiện lương, trong sáng của
nàng.
Trong một số truyện khác, yếu tố kì ảo cũng
không còn quyền năng vô biên như trong truyện dân gian. Cậu bé mãi phải sống
trong kiếp cá vàng (Cha, mẹ, con và cá vàng) dù cậu đã nhận ra sai lầm
của mình; chiến tranh thỉnh thoảng vẫn xảy ra, đất đai nhiều chỗ vẫn chỉ toàn
sỏi đá (Hai viên ngọc ước) dù Tiên Nhỏ đã biết lỗi… Như vậy, nhân vật
luôn phải trả giá cho những hành động không đúng của mình, không một lực lượng
siêu nhiên nào có thể giúp được. Với việc xử lý như vậy, tính giáo dục của
truyện Nguyên Hương được nâng lên rất nhiều.
Nguyên Hương rất có dụng ý khi lồng vào câu
chuyện những trò chơi dân gian mà trẻ con vốn rất quen thuộc như chơi lò cò (Cây
bút kì diệu), nhảy sạp (Thử giày), bịt mắt bắt dê (Bịt mắt bắt kẻ
nói dối), tạt lon (Đôi hài vạn dặm), oẳn tù tì (Ăn táo trả vàng),
bắn ná (Chiếc áo tàng hình), nặn tò he (Thục Sanh và Lý Thanh),
bắn bi (Quà tặng của cá vàng), dích lá (Nồi thần), ô ăn quan (Biến
nhập biến xuất). Ngoài ra, con người trong cổ tích Nguyên Hương vẫn phải lo
cái ăn, cái mặc, lo kiếm sống mỗi ngày. Con người trong thế giới đó không chỉ
chứng kiến những điều kì ảo, có khát vọng làm những việc phi thường mà còn phải
đối diện với biết bao lo toan cho cuộc sống thường nhật. Có thể nói, bằng nghệ
thuật dựng truyện độc đáo, tác giả đã đem đến cho các em không khí của cuộc sống
hiện tại.
3. Kết thúc câu chuyện
Thế giới truyện cổ tích là thế giới của
những giấc mơ đẹp đẽ vô ngần, chúng ta đến với thế giới cổ tích là để sống với
những ước mơ, mong muốn cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Tâm lý của người sáng
tạo truyện cổ tích và những người đọc cổ tích là đón chờ một điều gì đó công
bằng, tốt đẹp, nhìn thấy cái thiện được thưởng xứng đáng và cái ác bị trừng
trị: “Ở hiền thì lại gặp hiền/ Người ngay thì gặp người tiên độ trì” (Lâm Thị
Mỹ Dạ, Truyện cổ nước tôi). Do vậy, kết thúc truyện cổ tích luôn có hậu.
Đối với các nhân vật chính diện (Tấm, Thạch
Sanh, Sọ Dừa) tác giả dân gian không chỉ dừng lại ở sự phản ánh và cảm thông
với những đau khổ, đắng cay, oan ức của họ mà còn tìm cách giải thoát cho họ,
để họ được đền bù xứng đáng. Họ được đổi đời và sống hạnh phúc bên người yêu
thương (Tấm gặp lại vua và trở thành hoàng hậu, Thạch Sanh lấy công chúa và lên
làm vua, Sọ Dừa lấy được con gái phú ông và thi đỗ trạng nguyên...). Còn đối
với nhân vật phản diện, tác giả dân gian không chỉ phản ánh, tố cáo, lên án sự
tham lam, ích kỉ, dã man của chúng mà còn tìm cách loại trừ, tiêu diệt chúng để
cho những người lương thiện được sống yên vui. Vì thế, hầu hết các nhân vật
phản diện trong truyện cổ tích đều có kết cục bi thảm và bị trừng phạt thích
đáng. Tác giả dân gian không hề nương tay trước cái ác, cái xấu.
Nguyên
Hương cũng kế thừa lối kết thúc có hậu đó. Phần lớn các câu chuyện của chị đều
kết thúc viên mãn, người tốt được báo đáp, người xấu bị trừng phạt. Nàng Ly tốt
bụng, thương người cuối cùng chinh phục được vị vua trẻ và trở thành hoàng hậu
(Nàng Ly và quái vật); công chúa thoát kiếp vịt, sống hạnh phúc bên
hoàng tử còn phù thủy Đỏm Dáng thì hiện hình là con chuột chù xấu xí (Gương
thần), Huy giúp dân làng vượt qua khó khăn và có một tình yêu đẹp với nàng
Dung khéo tay, tốt bụng (Những chiếc đèn thần)… Cũng giống như những câu
chuyện cổ tích dân gian, truyện của Nguyên Hương bộc lộ quan niệm cho rằng sự
thật nhất định sẽ thắng dối trá, cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác, cái tích
cực trước sau cũng sẽ đè bẹp cái tiêu cực. Tuy nhiên, vì mâu thuẫn trong truyện
không được xây dựng đến mức gay gắt, vì nhân vật phản diện không quá ác độc,
xấu xa nên truyện của chị thường có kết thúc khá nhẹ nhàng. Cái xấu bị trừng
phạt với những hình thức phù hợp với hành vi của họ nhưng không trừng phạt bằng
cái chết. Lối xử lí như vậy vừa đảm bảo nguyên tắc của thể loại vừa không gây
cảm giác thương tâm hay sợ hãi ở các bạn đọc nhỏ tuổi.
Tuy
nhiên, nhiều truyện của Nguyên Hương lại có kết thúc khá độc đáo, không giống
với đặc trưng thể loại. Một số truyện của chị có kết thúc bỏ ngỏ. Nó không hoàn
toàn là kết thúc mở như các tiểu thuyết hay truyện ngắn đương đại nhưng cũng
không đi theo khuôn mẫu của lối kết thúc cổ tích. Tác giả dân gian luôn hướng
đến một kết cục trọn vẹn cho những nhân vật của họ. Ở đó, truyện thường kết
thúc khi mọi việc đã hoàn tất, mọi mâu thuẫn đã được giải quyết, mọi mong chờ
đã được đáp ứng. Nguyên Hương lại chọn một cách kết thúc khác - tạo ra những
khoảng trống ở cuối truyện. Trải qua nhiều biến cố, Linh đã nhận được bài học
về lòng kiên nhẫn và cũng tìm được tình yêu đích thực của đời mình. Truyện kết
thúc bằng chi tiết Linh từ chối tấm thảm bay đến Đảo Châu báu hay Xứ sở Thần
tiên. “Bà tiên biến mất, để lại trên tay Linh tấm thảm bay đến Tình yêu” (Chiếc
thảm bay). Chắc chắn Linh sẽ bay đến bên cô gái, hai người sẽ sống bên nhau
trọn đời nhưng tác giả đã không nói thẳng ra điều đó. Nàng Ly và quái vật,
Cây bút kì diệu, Chiếc mũ bốn mùa, Sáu lần biến hóa… cũng
được kết thúc theo cách bỏ ngỏ như vậy. Nguyên Hương đã tạo ra không gian để
chính các bạn đọc nhỏ tuổi hình dung và tưởng tượng.
Chữ A và chữ E là một truyện rất thành
công của chị. Kết thúc của nó khá bất ngờ. Nguyên Hương đã dẫn dắt chúng ta đến
với tình anh em thắm thiết và đầy cảm động. Người đọc đi từ thú vị này đến thú
vị khác. Trước tiên là cách chia của khác lạ của hai anh em. “Anh là chữ anh,
trong chữ anh có chữ A, vậy thứ gì có chữ A thì thuộc về anh. Em là chữ em,
Trong chữ em có chữ E, vậy thứ gì có chữ E thì thuộc về em”. Sau đó, tác giả
còn khiến người đọc bất ngờ hơn khi để người em, sau khi đỗ Trạng nguyên, từ
chối cơ hội trở thành phò mã và nhường cho anh. Với lối kết thúc như vậy, một
lần nữa, Nguyên Hương khắc họa sâu sắc tình cảm anh em tuyệt vời của họ. Công
chúa ngủ trong vườn cũng có một kết thúc khác thường. Người đọc yêu mến
Linh vì lòng tốt và sự dũng cảm của chàng. Với những gì anh làm cho công chúa,
anh hoàn toàn xứng đáng được ở bên nàng suốt đời. Nhưng trớ trêu thay, anh
không phải là hoàng tử, anh không thể tự mình phá bỏ lời nguyền giúp công chúa.
Cuối cùng, anh tìm được chàng hoàng tử tài đức vẹn toàn cho công chúa còn mình
trở về cuộc sống thường ngày với tâm trạng vừa vui nhưng cũng đầy nuối tiếc vì
tình yêu đơn phương với nàng công chúa xinh đẹp. Cách kết thúc như vậy khiến
độc giả bất ngờ và thú vị nhưng cũng khiến cho không ít người nhất là các em
nhỏ cảm thấy hẫng hụt. Trẻ dõi theo câu chuyện, các em luôn mong muốn nhân vật
mình yêu quý sẽ có được hạnh phúc trọn vẹn. Khi kết thúc không theo ý trẻ, các
em sẽ cảm thấy lòng tin của mình bị đổ vỡ. Khi lựa chọn một kết thúc khác với
lôgic thông thường, một mặt sẽ tạo được sự bất ngờ cho độc giả (cái rất cần
thiết để lôi cuốn bạn đọc, nhất là lứa tuổi thiếu nhi) nhưng một mặt sẽ không
thỏa mãn với tầm đón đợi của bạn đọc khi xử lý thiếu khéo léo. Chúng tôi
ghi nhận sự cố gắng của Nguyên Hương trong việc đổi mới thi pháp thể loại nhưng
có lẽ chị cần tinh tế hơn để tạo nên những kết thúc vừa mới lạ nhưng vẫn phù
hợp với tâm lý tiếp nhận của trẻ thơ.
Theo nhận định của TS. Lê Nhật Ký, “đặc sắc của truyện cổ
tích Nguyên Hương (...) nằm ở nghệ thuật kể chuyện. Phải thừa nhận, chị kể
chuyện rất có duyên, chủ động hướng sự chú ý của độc giả vào tác phẩm của mình
ngay từ đầu”[1].
Thật vậy, Nguyên Hương tỏ ra bản lĩnh trong nghệ thuật kể chuyện và tổ chức tác
phẩm. Và thật sự chị đã thành công, ít nhất là trong phương diện xây dựng cốt
truyện cho những câu chuyện cổ tích mới đầy hấp dẫn của mình.
Nguyễn
Thị Hương Lài
Lớp Cao học K.17, ĐH Quy Nhơn
Nguồn: Tạp chí Chư Yangsing, số 283/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét