Chương 11
Tôi và thằng Cù Lao mang hai cái nồi, một bị gạo, một hũ mắm đặt
vào thuyền. Dượng Hương mua thêm hai chục cá chuồn thính, một chục cá mòi dầu,
ba cân tôm khô, hai cân đường cát đem về cho dì Hương và để biếu bà con trên
đó. Gió nồm vừa thổi, dượng Hương nhổ sào. Cánh buồm nhỏ căng phồng. Thuyền rẽ
sóng lướt bon bon như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp.
Chỉ một chốc sau, chúng tôi đã đến ngã ba sông, chung quanh là những
bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít.
Thỉnh thoảng chúng tôi gặp những thuyền chất đầy cau tươim dây
mây, dầu rái, những thuyền chở mít, chở quế. Thuyền nào cũng xuôi chậm chậm.
Càng về ngược, vườn tược càng um tùm. Dọc sông, những chòm cổ thụ dáng mãnh
liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Núi cao như đột ngột hiện ra chắn
ngang trước mặt. Đã đến Phường Rạnh. Thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước.
Đến Phường Rạnh, dượng Hương sai nấu cơm ăn để được chắc bụng. Mùa
nước còn to, có khi suốt buổi phải chống liền tay không phút hở. Ba chiếc sào
bằng tre đầu bịt sắt đã sẵn sàng. Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng
đứng chảy đứt đuôi rắn. Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái co người phóng
chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng “soạc”! Thép đã cắm vào sỏi! Dượng
Hương ghì chặt trên đầu sào, lấy thế trụ lại, giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao
phóng sào xuống nước. Chiếc sào của dượng Hương dưới sức chống bị cong lại.
Nước bị cản văng bọt tứ tung, thuyền vùng vằng cứ chực trụt xuống., quay đầu
chạy về lại Hòa Phước.
Những động tác thả sào, rút rào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố
lấn lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn,
hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống
như một hiệp sỹ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt thác
khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng
vâng vâng dạ dạ.
Cho đến chiều tối, thuyền vượt qua khỏi thác Cổ Cò.
Chú Hai vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi. Dòng sông cứ chảy
quanh co dọc những núi cao sừng sững. Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những
bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía
trước. Qua nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra. Đã đến Trung Phước.
Thuyền vượt thẳng lên Dùi Chiêng. Nghe nói Dùi Chiêng, tôi và
thằng Cù Lao quên cả chuyện đi lấy gỗ, đầu óc tràn ngập những chuyện bắt hùm
sắp đến. Chúng tôi sẽ gặp ông Bá Hoành và ông Hội Hiệt. Họ đều có lông chân mọc
ngược, có cặp mắt nảy lửa, làm hùm beo khi nhìn thấy phải cúp đuôi bỏ chạy.
Thuyền cập bến Dùi Chiêng. Dượng Hương Thư đưa thẳng chúng tôi đến
nhà ông Hội Hiệt.
Một ông già vóc nhỏ, gầy nhom từ trong ngôi nhà gạch bước ra.
Dượng Hương cho biết đó là ông Hội. Tôi sững sờ. Không lẽ một người bắt hổ hình
vóc lại nhỏ bé khẳng khiu như vậy? Hổ khịt mạnh, ông Hội có thể bay mất. Tiếng
nói của ông dịu dàng chứ không như tiếng sấm. Cặp mắt cũng không nảy lửa. Tôi
hơi thất vọng. Thằng Cù Lao nhìn chăm chú vào chân ông, xem quả lông chân có mọc
ngược không. Ông Hội cũng nhìn chúng tôi thật chăm chú như muốn hỏi: Hai chú bé
này con nhà ai vậy?
Dượng Hương Thư nói chúng tôi là cháu của dượng, là những học trò
giỏi. Dượng giới hiệu với ông Hội chú Hai Quân đã đánh bọn cường hào vỡ sọ. Sau
đó chú vượt biển Đông ra ở ngoài cù lao Chàm, tự do vùng vẫy. Đã là phượng
hoàng thì không thể ở chung với bọn gà, vịt. Đến nay đã mười lăm năm, nước nhà
độc lập, chú về lại với quê cha đất tổ.
Ông Hội vuốt chòm râu thưa, nhìn chú Hai vẻ khoan khoái:
- Thế là trên nguồn dưới biển, cùng quê cha đất tổ cả. Nhờ cách
mạng, anh em ta lại gặp nhau, đoàn tụ!
Ông Hội đưa tất cả vào nhà, mời khách ngồi vào ghế. Hôm đó, tôi và
thằng Cù Lao ăn mặc sạch sẽ, khi ngồi vào những chiếc ghế gỗ láng bóng thấy
cũng hợp. Ông Hội lấy làm lạ vì sao mới vừa lụt xong dượng Hương đã lên chơi
sớm vậy. Dượng Hương nói lên lấy gỗ về làm trường như ông Hội đã hứa.
- Tưởng gì! Gỗ đó tôi không dùng nữa, tôi xin biếu hết cho làng.
Nhà cửa với miếng vườn này tôi cũng muốn dâng cho cách mạng.
Ông Hội nhìn sang chú Hai:
- Không mấy khi các anh và các cháu lên đây. Mời ở lại ăn thịt
ướp. Cây nhà lá vườn...
Nhà ông Hội trông bề thế. Giữa nhà treo một lá cờ đỏ sao vàng.
Cách mạng trên nầy cũng có. Tôi nhìn quanh. Những đầu hổ và những da hổ treo
thành một hàng trên vách. Trên các cột còn móc đủ loại sừng. Có những sừng
giống như mũi mác. Có cái dài ngòng ngoèo giống như một cành cây nhiều nhánh.
Hai bên vách, treo nào súng săn, nào mã tấu, dao rừng. Tôi cứ nhìn nhìn, cái gì
nom cũng lạ. Một chốc sau cơm đã dọn lên. Ông Hội mời tất cả ngồi lại. Vì chúng
tôi là học trò giỏi nên được cùng ngồi một mâm. Ông Hội cầm đũa chỉ vào một đĩa
thịt đầy ắp, giới thiệu đó là thịt hổ, ăn món thịt hổ sẽ khỏe ra ngay. Đợi
người lớn gắp trước, tôi và thằng Cù Lao gắp thịt bỏ vào mồm. Thì ra thịt hổ
cũng mềm như thịt trâu, không cứng như tôi tưởng. Gắp đến cục thịt thứ hai, tôi
nghe khắp người khỏe ra, những mệt mỏi tiêu tan đâu mất!
Chú Hai Quân nhắp tý rượu, nói :
- Ở vùng xuôi, ai cũng đồn cụ Bá Hoành nhà ta săn hổ giỏi. Cụ có
cặp mắt sáng quắc là nhờ cụ uống nhiều rượu có dầm mắt cọp.
Ông Hội cười:
- Không phải vậy đâu. Mắt ông cụ cũng như mắt mọi người. Còn muốn
săn được cọp phải biết tính nết của nó.
- Người ta đồn giống cọp tài lắm! Ta nói gì chúng đều nghe hết.
Nhưng khi đi khỏi ba mươi thuớc là chúng quên hết!
- Cho nên người ta còn gọi cọp là ông ba mươi.
Ông Hội cười:
- Hùm chỉ là loài hung dữ. Nó cũng sợ người. Ở rừng sâu không có
người qua lại. Chộ phải ta, nó nhìn như hỏi: " Con gì lạ vậy?" Rồi
cúi sát lẩn trốn. Nó bắt người là vì đói và cũng là hùm già, không đánh nổi với
trâu rừng, bò tót. Ngày trước, cha tôi chuyên gài bẫy. Nhiều bẫy nay còn đó.
Chú Hai chỉ một tấm da treo cạnh những da hổ:
- Còn con này cũng là hùm chớ?
- Nó là giống beo. Đi rừng ta phải dè chừng
beo ngồi trên cây. Khi nó leo cây, nó lấy chân sau hất mình lên từng đợt, cứ
thế leo lên cây ngồi đợi. Thấy hươu nai chạy ngang, nó thả người xuống phóng
lên đón đầu, không để chạy thoát.
Tôi và thằng Cù Lao muốn ông Hội kể mãi chuyện
đánh hùm beo, nhưng dượng Hương Thư chợt hỏi:
- Hôm nào anh cho đi xem gỗ?
Ông Hội cho biết sáng ngày kia phải đi sớm.
Chúng tôi sẽ vào chòi của ông trong rừng, gỗ chất trong đó. Sẽ ngủ lại một đêm
trong chòi. Dượng Hương quày quả đứng dậy xin ra thuyền. Dượng còn tranh thủ về
thăm dì Hương. Nhà dượng cách bến Dùi Chiêng chỉ hơn cây số. Chèo chống giỏi,
nửa giờ sau là đến chỗ dượng.
Dượng Hương Thư đưa chúng tôi về nhà. Nhà
dượng nằm giữa một khu vườn có nhiều cây cau cao vút. Cây nào cũng thẳng tắp trông
như những cột cờ, trên chóp tỏa ra một tùm lá xanh um với những buồng cau sai
quả.
Dì Hương sung sướng vô kể. Dì cho tôi và
thằng Cù Lao đã vượt thác băng ngàn đến thăm dì ở nơi thâm sơn cùng cốc. Dì rất
mong chú Hai và thằng Cù Lao lên đóng ở Dùi Chiêng, đất Dùi Chiêng dễ kiếm
sống. Với lại ai đến Dùi Chiêng thì ở yên như bàn thạch. Theo dì, tôi đã gầy
tọp lại, có lẽ vì ăn uống quá ít. Lần nào gặp tôi, dì cũng bảo tôi gầy tọp lại,
mặc dù tôi đã béo ra làm ai cũng quở. Dì xách cây sào tre, chạy ra vườn gõ mít,
xem có quả nào đã "trở tiếng". Quả nào gõ nghe bình bịch, dì lấy câu
liêm dứt rơi xuống đất. Tôi và thằng Cù Lao ăn mít chín đến ngấy. Dì còn làm
đãi khách món da trâu ăn để giải nhiệt.
- Da trâu ăn mát lắm! Nó sẽ "giải"
bớt cái nhiệt của món thịt hổ đằng nhà ông Hội.
Dì vừa nói vừa thái món da trâu ướp. Da trâu
được dì biến chế hóa trắng hóa mềm ăn nghe xốp xốp.
Dì Hương Thư cũng trồng dâu nuôi tằm, cũng có
nong nia, giỏ to, giỏ nhỏ chẳng khác gì ở Hòa Phước. Chung quanh nhà cũng có
cánh đồng rộng trồng ngô trồng dâu chẳng có vẻ gì là thâm sơn cùng cốc. Nhiều
bạn hàng đi bửa cau đang trú ở nhà dì. Cau Dùi Chiêng quả nào cũng nhiều ruột,
loại lòng tôm có ngấn vàng, loại lòng cơm trắng đục. Các bà bửa cau, bà nào
cũng muốn tôi và thằng Cù Lao ăn thử một miếng trầu cho biết vị cau nguồn vừa
thơm vừa béo. Dì Hương Thư lấy rơm lót vào giỏ, sắp đầy một giỏ xoài tượng biếu
chú Hai. Dì gửi cho mẹ tôi năm quả mít và hai buồng cau lòng tôm quả to như
những trứng gà. Tiếc rằng sau này lúc xuống thác, những thứ đó bị hất tung
xuống nước.
Chòi của ông Hội không giống như chòi giữ ngô
ở Hòa Phước. Đó là một ngôi nhà sàn lớn có đến mười cột lim. Sàn lót bằng ván
kiền kiền vững chắc. Lên sàn phải leo một cái thang sáu nấc. Ông Hội dựng chòi
giữa rừng nói là để làm trạm liên lạc cho việc săn bắn, nhưng đó cũng là nơi
trú ngụ của nhiều nhà yêu nước. Dưới chòi có dựng hai thớt lim cắm đầy chông
nhọn bằng sắt. Dượng Hương cho biết đó là cái bẫy cọp. Khi gài bẫy, ông Hội rút
một thớt lim lên. Khi bẫy sập, thớt lim đó đánh ập xuống, hổ bị kẹt vào giữa,
chông sắt cắm vào bụng. Ông Bá Hoành đã nghĩ ra nhiều loại bẫy, có loại bẫy
hầm, có loại bẫy kẹp, có loại bẫy sập cắm chông. Khi sa bẫy, cọp không thể
thoát.
Ông Hội ngồi dựa lưng vào vách chòi hút
thuốc. Ông nhìn sang chú Hai:
- Ngày trước, ông nội tôi cũng bỏ làng đi lên
trên này mưu đồ làm giặc, tôi cũng muốn bắt chước ông tôi. Vào đây tự nhiên
thấy thênh thang, chẳng ai trói buộc mình được!
Ông Hội cho biết ông nội của mình xưa kia học
chữ nho đi thi hương, sau đó ông đi thi võ nhưng không đỗ. Ông vào rừng tìm cỏ
trường sinh, uống vào con người sẽ sống mãi. Tìm cỏ trường sinh không ra, ông
quay về nhà. Sau đó, ông nhập đảng Cần Vương nổi lên chống Pháp. Ông cùng nhiều
ông khác lên trên này lập căn cứ nghĩa quân. Vùng Trung Phước xưa kia còn gọi
là Tân Sở vì nghĩa quân lập căn cứ rút lui ở đây. Cần Vương không thành, Pháp
lùng bắt rất dữ. Ông trốn lên trên này đổi họ, giấu tên, trà trộn với đồng bào
Thượng, làm nghề săn bắn. Ông nội trước khi tắt thở đã trối lại cho con cháu
biết những chuyện nói trên, dặn khi nước nhà hết giặc phải về thăm làng cũ, tìm
lại tông tích ông bà, lấy lại họ cũ để cho phải đạo.
Chú Hai ngậm ngùi:
- Lúc bỏ làng ra đi, tôi cũng thích làm giặc!
Ông Hội cười:
- Sau ba đời, chúng tôi mới tìm lại được quê
nội. Còn anh Hai về làng sau mười lăm năm! Chỉ vì ta mất nước. Trước kia trên
này cách biệt với dưới đó. Hòa Phước cách biệt với cù lao Chàm, không phải vì
biển rộng, núi cao mà vì ta mất nước. Nay độc lập, tất cả giang sơn như sít gần
lại, có gì cách trở nữa đâu! Sau cướp chính quyền, tôi đi một mạch từ Trà Linh
xuống Cửa Đại. Chúng ta chỉ cách nhau bốn mươi cây số, có núi che ngang, nhưng
cùng một quê nội!
Một chim cu nổi gáy. Rừng núi như im lại. Tiếng nói của ông Hội
vang lên rõ hơn:
- Lúc còn sống, cha tôi chuyên nghề bắt hổ. Nhưng ông muốn nối chí
ông cha mưu đồ việc lớn. Nhiều người yêu nước qua lại trên này. Họ gặp nhau bàn
mưu tính kế. Cha tôi xây dựng chòi này không phải để nghỉ chân. Đây là nơi tụ
họp. Nhưng việc lớn không thành. Những người bỏ nhà ra đi, lên rừng ẩn núp
không ít. Họ mài răng căng tai, sống hòa mình với đồng bào Thượng.
Chú Hai hỏi:
- Thế có khi mô Tây mò đến không?
- Có một lần. Sau đó nó hoảng kinh, cút mất. Rừng núi ông bà linh
thiêng lắm!
Ông Hội vui hẳn lên:
- Một dạo chúng tôi được trát sức phải đưa hai quan lớn Pháp đến
vùng có nhiều hùm để các quan săn bắn. Cha tôi lấy dao đâm lủng chân tay, nói
là bị cọp bâú không thể đích thân hộ tống các quan lớn được. Phải giao việc đó
cho tôi là con trai, cũng là một tay săn cọp. Cực chẳng đã, tôi phải vâng theo.
Cha tôi dặn tôi phải đưa chúng chệch sang một hướng khác.
Hai quan lớn đi săn mang theo một đoàn tùy tùng đến hai mươi đứa.
Lính tráng, bồi bếp, phu phen phải khiêng các quan trèo núi. Không chỉ khiêng
các quan mà còn phải khiêng thùng đựng rượu, đựng bình toong, hộp sữa, các máy
để ngắm, để đo. Quan sai dọn cỏ, hạ cây, dựng lều chỗ cao ráo. Nhà phải đặt gần
suối để quan tắm táp. Chỗ cột ngựa nhất thiết phải có hàng rào đề phòng cọp đến
tha ngựa.
Một buổi tối bọn bồi bếp ở ngoài suối chạy về kêu la hoảng hốt:
- Có hùm! Có hùm! Nhiều lắm!
Có tiếng lào xào rồi tiếng cây gãy răng rắc. Qua vài phút im lặng,
rừng núi như nổi cơn giông. Đất đá từ trên cao đổ ào ào. Tôi chỉ còn kịp leo
lên một cây to gần đấy. Một đàn voi có đến ba mươi thớt từ đâu xông đến. Trong
bóng trắng mờ mờ chúng lồng lên, gào rống, chà đạp. Chúng xốc vào nhà dù, quật
vải bạt, đạp quần áo, giày dép, bao bị, súng ống, rương hòm, co vòi móc tất cả
vứt lên cao rồi lại chà, lại đạp. Chợt chúng lặng im rồi gào rống to hơn. Hai
thằng Tây theo tôi tót lên cây nên thoát chết.
Dượng Hương Thư quả quyết:
- Chúng tinh lắm, khôn lắm!
Khi một con bị thương ngã xuống, những con khác quỳ xuống, lấy đầu
đẩy, dùng vòi dựng dậy. Khi biết bạn mình đã chết, chúng rống lên một hồi thảm
thiết, moi đất đắp lại. Sau đó chúng kêu lên mấy lần rồi mới từ biệt.
Nghỉ trưa xong, chúng tôi tiếp tục xuyên rừng đi xem gỗ của ông
Hội. Chúng tôi lên dốc, xuống dốc, chui qua gai góc, bước lom khom. Một con
chim lông màu đá, ngực vàng óng nổi kêu : Rết ta ta! Rết ta ta! Một vài chim
câu lưng màu xanh, cổ màu hồng, cất cánh nghe một tiếng "roặc". Chợt
có tiếng lao xao trên cành cây cao, một khuôn mặt tí tẹo với cặp mắt trong veo
của một chú khỉ đang nhìn xuống. Một ngọn nước từ trên cao đổ xuống, bọt tung
như hoa trắng. Tôi với thằng Cù Lao có một nghìn việc muốn hỏi ông Hội, vì
nhiều câu hỏi quá nên không biết hỏi câu gì. Dượng Hương đi trước chốc chốc chỉ
cho chúng tôi thấy những dấu vết của giống thú rừng qua lại. Thú rừng bị ngứa
cà mình vào các gốc cây và để lại một túm lông. Dượng Hương biết đó là lợn
rừng, bò rừng hay gấu...
Chúng tôi lội quanh một con suối, trèo lên một dốc cao có nhiều
đống lá. Đó là những khúc gỗ của ông Hội bị lá rụng phủ kín. Dượng Hương Thư
hất lá, cứ trầm trồ chưa bao giờ dượng thấy những cây sơn to đến thế. Muốn đưa
được những cây gỗ đó ra sông phải thuê thợ xẻ nhỏ, trâu mới kéo được. Việc đó
cũng không phải dễ. Tính đi tính lại, dượng Hương và chú Hai không dám nhận số
gỗ ông Hội tặng. Ông Hội cho biết ông còn một số gỗ nhỏ đang nằm ở Thạch Bích.
Dượng Hương và chú Hai đến đấy mà lấy. Ông Hội đã thanh toán giá cả với ông Ký
và thợ rừng ở đó. Ông Hội đang bận nhiều cuộc họp nên không cùng đi với chúng
tôi được.
Sáng hôm sau, chúng tôi rời Dùi Chiêng để lên Bình Kiều và Thạch
Bích. Từ Dùi Chiêng đi Bình Kiều, núi non hai bên bờ lúc khép lại, lúc mở ra.
Càng lên cao, sông càng hẹp lại, chảy xiết giữa những bậc đá chất chồng. Núi
Thạch Bích trước mặt hiện ra sừng sững. Dòng sông phóng từ trên cao xuống giữa
hai vách đá đồ sộ, thẳng tắp giống như một cổng trời cao vút. Vách đá láng bóng
không một vết lồi lõm. Tục truyền xưa kia, vị Thượng Ngàn đã dùng gươm thần
chặt núi Thạch Bích ra làm đôi. Nếu vậy thì núi lúc đó phải mềm như đất nhão và
kỹ thuật chém núi phải thật cao cường. Có vậy mới tạo ra được một chiều đứng
ngay thẳng kỳ lạ như vậy. Nước lao vun vút như đàn ngựa phi nước đại. Tiếng
nước chảy vang lên như có hàng trăm chiếc cồng cùng đánh một lúc. Dượng Hương
cho dừng thuyền ở phía dưới Thạch Bích, tìm vào nhà ông Ký. Ông là thợ rừng quê
ở Bình Kiều. Ông từng hạ những cây lim to bán cho dượng Hương. Số gỗ của ông
Hội là loại gỗ sến nhỏ, rất vừa cho việc xây dựng nhà cửa. Ông Ký đưa chúng tôi
vào nhà. Nhà ông cách bến nước một cây số, dựng giữa một cái dốc cheo leo như
cắm vào lưng chừng núi. Đứng trong nhà nhìn ra thấy mây bay dưới chân lớp lớp.
Nhưng chóp núi nhấp nhô trong mây nom giống một đàn trâu đang ngụp lặn. Giữa
nhà ông Ký treo một lá cờ đỏ sao vàng rực rỡ. Không ngờ cách mạng cũng lên tận
những nơi thâm sơn cùng cốc.
Ông Ký nói:
- Không năm nào ghe thuyền lên đây sớm như năm nay. Vừa lụt xong,
các bác đã lên chở gỗ. Có ghe vạn Hòa Phước lên mua dầu rái. Cách mạng thành
công, chánh phủ bỏ hết thuế chợ, thuế thuyền. Ai cũng muốn lên xuống thông
thương cho sướng!
Dượng Hương Thư vẻ ngạc nhiên :
- Nước còn to, ở vạn Hòa Phước chẳng ai đi đâu cả. Có ai lên trên
này đâu! Chúng tôi lên sớm để… kịp việc trường trại. – Dượng Hương Thư vừa sực
nhớ: - Chỉ có ghe ông Hoạt không biết đi đâu?
Ông Ký nói gần như reo:
- Phải rồi! Ông đó là ông Hoạt! Ông Hoạt ghé qua đây hôm qua, hỏi
mua dầu rái. Ông Hoạt nhiều lần lên đây bán mắm. Mắm ngon lắm!
Vừa nghe đến ông Hoạt, tôi đã chú ý. Thì ra thuyền ông Hoạt lên
trên này. Mấy hôm trước đây, tôi và thằng Cù Lao đã ra vạn Hòa Phước bơi tìm
thuyền ông Hoạt nhưng không thấy đâu cả.
Tôi vội vàng hỏi:
- Ghe ông Hoạt lên đây hở bác?
- Ừ, ông Hoạt.
Thằng Cù Lao hỏi tiếp:
- Có phải ông Hoạt có búi tóc không bác?
- Ừ, ông đó.
- Ông lên đây lúc nào bác?
- Hôm qua.
- Ông lên một mình hở bác?
- Có vợ có con nữa chớ.
Có tiếng chú Hai dặng hắng. Chú Hai quắc mắt nhìn thằng Cù Lao:
- Mày để các bác nói chuyện! Con nít hỏi lia lịa việc đó làm chi!
Thằng Cù Lao cứ thấp thỏm, cố tìm cách hỏi thêm. Nó đánh bạo:
- Ông Hoạt đi đâu rồi bác?
- Chẳng biết!
Chú Hai lại mắng:
- Im ngay! Mày trám họng người lớn, la mãi không được! – Chú phân
trần:- Con nít vô lễ, làm tui giận hết sức!
Ông Ký giảng giải :
- Trẻ con là vậy. Khi thương ai, chúng hỏi rối rít. Sau đó lại
quên.. Chúng cười đó, khóc đó, vì cái « tính bổn thiện » của chúng đã định được
đâu. La mắng làm chi cho mệt !
Từ hôm biết tin thuyền của ông Hoạt đang ở Bình Kiều, tôi và thằng
Cù Lao cứ nghi nghi. Dượng Hương cũng không hiểu ông Hoạt lên trên này làm gì,
vì chưa đến mùa bán buôn đổi chác. Thằng Cù Lao muốn gặp ngay anh Bốn Linh,
muốn về sớm. Ai cũng ngạc nhiên vì trước đó nó muốn ở lại xem ông Hội bắt hổ.
Nó còn xin phép dượng Hương cho nó vào rừng xem thử có ai trong đó không. Dượng
Hương tưởng nó hóa rồ :
- Có ai ? Có cọp trong đó thì có ! Mày muốn cọp xách hả ?
Chú Hai lo thằng Cù Lao bị ma ám. Vì có bị ma ám mới nói lảm nhảm
như vậy.
Ông Ký bảo nó bị lạc vía. Khi về nhà phải làm lễ để hú ba hồn bảy
vía nó lại. Trẻ con đi rừng chưa biết kiêng kỵ, phạm phải chỗ ăn nằm của chư
vị. Chư vị đã hớp mất hồn. Chỉ cúng con gà, cái rồ của nó sẽ bay mất.
Tôi bảo thằng Cù Lao phải tỏ ra không rồ không điên gì cả. Nhưng
nó bảo không nên để lộ. Cốt làm sao tin cho anh Bốn Linh biết.
Dượng Hương Thư chọn gỗ xong thuê trâu kéo ra bến. Đường tuy gần
nhưng rất khó đi. Trâu phải kéo từng cây gỗ một. Bắt ách xong, ông Ký quất một
roi vào lưng trâu, trâu trườn lên bắt đầu leo dốc. Vừa leo lên dốc lại phải
xuống dốc. Dượng Hương và chú Hai theo sau, tay cầm đòn xeo sẵn sàng bẩy gỗ
giúp trâu vượt qua chỗ hiểm. Trâu rừng rất khôn, biết mình đang đi trên một vực
thẳm. Gỗ rơi xuống vực thì trâu cũng bị rơi tòm. Trâu choãi chân cố bước, không
hề thụt lui. Dượng Hương vừa bẩy, vừa xeo, miệng hô " lố, lô lô" động
viên cho trâu cố bước.
Gỗ chất thành đống ở mé sông, khúc nào cũng nặng trịch, chỉ có đòn
xeo mới xeo nổi. Dượng Hương cột gỗ thành bè. Việc cột bè là một nghệ thuật,
sau này tôi không thấy sách nào dạy cả. Bè dài, ngắn, cột chặt hay cột lỏng là
tùy con nước.
Cột bè xong, dượng Hương điềm tĩnh ngồi hút thuốc. Chợt Dượng đứng
dậy nhặt sào, chống bè rời bến. Vẻ mặt lạnh lùng, dượng bước đến trước bè. Chú
Hai cầm sào đứng phía sau bè. Tôi và thằng Cù Lao ngồi thuyền lo việc bát và
cạy. Dượng Hương đã chỉ bảo những điều nhất thiết phải làm khi bè xuống thác.
Ra đến giữa dòng, chiếc bè nhập vào chỗ nước dềnh lên, nhún nhảy,
dừng một phút như đang phân vân rồi bắt đầu phóng. Những khúc gỗ nặng trịch
bỗng hóa nhẹ nhàng linh lợi như những phao câu. Dượng Hương hai tay cầm ngang
chiếc sào đứng khom khom, cặp mắt dán về trước, như chực đâm một con thú dữ vừa
xuất hiện. Chợt chiếc bè rung chuyển toàn bộ. Đuôi bè chổng lên, mũi bè lút
xuống. Dượng Hương và chú Hai như đang ngồi trên nóc nhà. Dượng Hương quay về
phía chúng tôi, thét to:
- Cạy mạnh! Nới dây, nới dây!
Thằng Cù Lao cạy mạnh, nới dây buộc thuyền để thuyền tách ra khỏi
bè. Thuyền vẫn bị xách lên. Bát chén trong thuyền rơi loảng xoảng. Mít cau của
dì Hương lăn ào ào xuống nước. Con thác hung dữ tìm đủ cách để hất bè tung lên.
Nước gầm réo, văng bọt tứ tung. Đôi sào của dượng Hương và của chú Hai làm việc
tới tấp. Chợt dượng Hương chĩa mũi sào ra đàng trước, quát to:
- Gành đó! Coi chừng!
Phía trước, một mũi đá nhọn hoắt đang hút bè lao tới. Dượng Hương
thét xong, mũi sào của dượng đã chạm vào đá nghe một tiếng "roạt" ghê
rợn. Chiếc sào bị nống cong lại như cây sung. Mũi bè chỉ còn cách ghềnh đá vài
phân, bè bị hai chiếc sào cản lại, quay vòng như lúng túng không hiểu sao mình
chưa vỡ tan ra từng mảnh. Bè lại tiếp tục trôi xuôi. Cặp sào của dượng Hương và
của chú Hai cứ rút lên thả xuống răm rắp, khi nống bên này, khi đỡ bên kia lia
lịa. Chợt thằng Cù Lao nổi kêu to:
- Ai như ông Hoạt kia kìa!
Nó vừa kêu vừa chỉ tay vào một vòm lá ngả trên sông. Chỗ đó tối
om, tôi thấy có một chiếc thuyền. Thằng Cù Lao kêu toáng lên mấy lần nữa. Chú
Hai quắc mắt quát ầm:
- Mặc người ta! Gọi ông Hoạt làm chi? Tao nện cho một sào bây giờ!
Dượng Hương cũng quát:
- Lo mà cạy! Không khéo bể ghe đó!
Chiếc bè cứ lao về phía trước. Dòng thác như một dây cũng đang bắn
bật mũi tên. Mũi tên đó là chiếc bè.
Xuống đến Trung Phước, bè thôi không phóng nước đại nữa. Trời về
chiều. Bị ngấm nước lâu, ai nấy cũng rét run cằm cặp. Dượng Hương cho dừng bè
lại, đợi sáng hôm sau, lúc sương tan, bè tiếp tục xuôi về Phường Rạnh.
Qua khỏi ghềnh Ngô, sông Thu Bồn bỗng như tỉnh táo hẳn lại. Đôi
bờ rộng ra, mặt sông trở nên êm ả. Chú Hai thở phào:
- Nam mô Phật!
Dượng Hương thả rơi cây sào trên bè:
- Lên thác xuống ghềnh là vậy đó!
Chiếc bè trở lại chậm chạp, trôi nặng nề như đang buồn ngủ. Tôi và
thằng Cù Lao cố chống nhưng nó chẳng nhích nhanh hơn.
Đến quá nửa chiều, vạn Hòa Phước hiện ra đằng ra. Dượng Hương Thư
lái bè vào bến. Bọn trẻ thả trâu ăn trên bãi vừa nhìn thấy bè đã chạy ùa ra mé
sông gọi kêu ầm ĩ. Bè vừa cập bến, chúng tôi chạy gấp về nhà gặp anh Bốn, báo
cho anh biết thuyền ông Hoạt đang trốn tránh ở Thạch Bích. Anh Bốn ngồi nghe,
cặp mắt chớp chớp, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Anh Bốn không hiểu vì sao chúng
tôi lại biết được chuyện phán Ninh làm mật thám. Chúng tôi thú thật chuyện được
nghe lỏm tối hôm nọ. Anh Bốn bỏ qua, dặn đi dặn lại phải giữ bí mật. Anh suy
nghĩ hồi lâu, hỏi đi hỏi lại không biết mấy lần. Hỏi xong anh Bốn vội vã ra bến
gặp chú Hai và dượng Hương Thư. Anh hỏi chuyến đi của họ có mệt nhọc lắm không.
Dượng Hương trả lời chẳng có tý gì mệt nhọc cả. Anh Bốn mời dượng Hương Thư và
chú Hai về nhà để bàn một việc gấp. Tôi đoán biết anh Bốn đã bàn việc gì. Ngay
sau đó anh Bốn lên huyện. Sáng hôm sau anh về nhà, cùng đi theo có hai người
mang súng ống. Dượng Hương Thư lại nhổ sào vội vã đi nguồn một chuyến nữa.
Thầy Lê Hảo và chú Năm Mùi được cử vào ban đốc công xây dựng
trường mới. Tôi và thằng Cù Lao được chỉ định giúp việc kéo gỗ từ bến Hòa Phước
vào chòm đa Lý. Trực tiếp lo việc kéo gỗ là trâu Bĩnh. Công việc kéo gỗ hoàn
toàn mới đối với nó. Nó rảo bước không cần roi vọt chửi mắng gì cả. Tôi và
thằng Cù Lao bắt chước các bác thợ rừng cầm sào xeo gỗ, luôn mồm lô, lô! Chúng
tôi lướt qua trước mắt mọi người, lòng đầy tự hào thấy mình đang lo kiến thiết
một xã hội mới.
Chuyển gỗ xong, tôi và thằng Cù Lao giúp gánh đất đắp nền trường.
Trường xây chỗ cao, mặt trước xây về hướng đông đón gió nồm từ bể thổi đến. Các
bác thợ cưa đã đến, Họ đóng nọc, dựng ngược những khúc gỗ lên, dùng cưa to xẻ
gỗ thành kèo, thành trích. Bột cưa gỗ sến màu vàng nhạt, gỗ mít nài màu trắng,
gió hất tung bay, mùi thơm thoang thoảng. Chòm đa Lý bỗng rộn lên tiếng đục
tiếng cưa, hòa lẫn với tiếng cười, tiếng chim hót. Thầy Lê Hảo làm đốc công cho
phép mọi người canh trưa được nghỉ một giờ. Ăn trưa xong, tôi và thằng Cù Lao
nằm khểnh dưới bóng mát. Một lúc sau, chúng tôi nhỏm dậy chạy đi đánh mõ để
công nhân công trường chòm đa Lý trở lại làm việc. Chị Bốn, chị Ba thức dậy sớm
hơn mọi ngày. Tổ phụ nữ tỏ ra vô cùng tích cực. Hai chị chạy gọi các chị trong
xóm cùng vào chòm đa Lý đắp nền trường, gánh vôi, gánh gạch. Chỉ có việc dỡ
gạch ở miếu thờ quỷ Bạch Thố và quỷ Năm Nanh là chưa làm được. Miếu đã sập vì
gió mưa, gạch đổ ngổn ngang dưới cây đa lớn. Ông Kiểm Lài được chú Năm Mùi phân
công đến nhặt những gạch tốt, sắp lại thành đống dùng để dựng trường. Nhưng ông
Kiểm cứ chần chừ. Cho đến hôm ngói ở Thanh Hà đã chở về, chú Năm phải đến giục
ông Kiểm...
Ông Kiểm đang nằm quấn chiếu, vừa thấy chú Năm, ông Kiểm đã ngồi
dậy nói ú ớ:
- Mô Phật, mô Phật! Tôi nằm chiêm bao thấy bà Bạch Thố với bà Năm
Nanh hiện lên. Hai bà nhe nanh, xòe vuốt, chỉ vào mặt tôi:" Mày đó hả? Mày
định đến lấy gạch của tao đó hả? Tao vặt cổ cho mà biết!". Mô Phật! Từ hôm
đó đến nay hồn vía tôi lên mây. Tôi chẳng dám làm chi nữa...
Chú Năm hỏi:
- Có phải hai bà tóc dài chấm đất, bà nào cũng có nanh, có vuốt,
mặc áo trắng tinh phải không? Giữa khuya hai bà cũng hiện lên chỗ tôi nằm. Hai
bà bảo tôi phải đến lấy hết gạch ở miếu đổ của bà, phải quét dọn sạch sẽ vì
chồn chuột chui rúc phóng uế bậy bạ, hai bà không chịu nổi. Tôi đang phân vân
thì hai bà liền bỏ nhỏ, ỏng a ỏng ẹo bảo tôi phải giúp bà. Tôi với bọn thằng
Cục thằng Cù Lao đã đến xếp gạch thành một đống vuông vức. Tôi nghe càng khỏe
ra, chẳng ai vặn họng vặn cổ chi cả.
Ông Kiểm Lài mở to mắt nhìn chú Năm, xem bộ chưa tin. Chú Năm quả
quyết:
- Nếu ông chưa tin thì cứ vào chòm đa Lý mà coi, coi thử tôi có
nói láo không! Gạch đã dỡ ra, xếp lại rồi. Nay ông vào để chuyển gạch cho
thợ...
Chú Năm bảo bà Kiểm Lài phải nấu ngay cho ông ông Kiểm một nồi
cháo hành, ông ăn cho nóng. Và ăn xong ông phải vào ngay chỗ chòm đa Lý, vì các
bác thợ vôi ở trong đó đang đợi.
Ông Kiểm đứng dậy, vội vã xách nón đi ngay vào chòm đa Lý gặp các
bác thợ vôi.
Anh Bốn Linh và hai anh cán bộ đi suốt hơn tuần lễ vẫn chưa thấy
về. Ở nhà ai cũng trông đợi. Tôi tưởng phen này anh Bốn về nhất định sẽ mang
theo phán Ninh chân tay bị trói chặt.
Một hôm ở chòm đa Lý về, tôi thấy anh Bốn Linh nằm khoèo trên
giường, ngáy giòn tan. Anh ngủ suốt ngày hôm sau, khi thức dậy vẻ người phờ
phạc. Tôi đoán là anh Bốn Linh không bắt được phán Ninh và mọi việc đã bị thất
bại. Buổi tối, anh gọi thằng Cù Lao đến bên cạnh, nói cho nó biết là các đồng
chí trinh sát gửi lời thăm nó, công nhận nó có tinh thần cảnh giác, biết giúp
chính quyền bắt được tên phản bội. Và như vậy, đoàn thể xem nó như đã được kết
nạp vào đội Thiếu niên công tác. Việc này chưa thể công bố với mọi người, vì
tình hình đang rất gay go, mọi việc đều phải tạm rút vào bí mật. Thằng Cù Lao
và tôi chỉ cần biết một điều. Đó là phải làm nhiều công tác, công tác đứa nào
đứa ấy biết, không cần bàn tán lôi thôi. Đã có chú Năm Mùi phụ trách, phân phối
mọi nhiệm vụ. Nói xong, anh đưa ra một xấp ka - ki màu xanh láng mướt, bảo là
các đồng chí cấp trên có hỏi về gia đình nó, gửi tặng nó bốn thuớc vải. Anh
nhìn sang phía tôi:
- Còn mày, độ rày có chút ít tiến bộ, cấp trên gửi cho một cái hộp
gỗ.
Sự việc quá đột ngột, làm tôi và thằng Cù Lao bàng hoàng. Tôi hỏi
lại anh Bốn Linh làm thế nào bắt được phán Ninh. Giọng anh Bốn Linh đanh lại:
- Ban ngày, phán Ninh vào ở trong rừng, khó khăn lắm!
- Nó đâu rồi?
- Đưa về cho các đồng chí trinh sát ở tỉnh. Đem về đây sao được?
Anh Bốn Linh dặn chúng tôi phải giữ bí mật, nhất là những đồ vật
được cấp trên gửi tặng, không được rỉ hơi ai biết. Ở trên còn đang tiến hành
điều tra những manh mối khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét