Ngày xưa có một anh học trò côi cút
hiền lành. Nghe tin ở một tỉnh Đàng ngoài có một ông thầy nổi tiếng tài cao học
rộng, ngoài "bách gia chư tử", các môn "nhâm, cầm, độn,
toán" thảy đều tinh thông, anh học trò liền để người vợ trẻ ở nhà, cố lặn
ngòi noi nước tìm đến tận nơi theo học.
Học được ba năm, một hôm anh bỗng nhớ
tới vợ bèn xin phép thầy trở về thăm quê. Thầy bảo trò ngửa bàn tay cho xem,
xem xong, thầy bảo:
-
Con về lần này lành ít dữ nhiều, không nên con ạ!
Tuy
người học trò vâng lời, nhưng thầy thấy vẻ mặt anh ta không được vui việc học
có phần trễ nải, nên sau đó ít lâu, thầy lại bảo:
-
Như chí con đã quyết thì con cứ về. Con sẽ gặp một số tai nạn, để ta đọc cho
nghe mấy câu này, con nhớ kỹ lấy và theo đúng thì mới tránh được:
Gặp
đình chớ tới,
Gặp
thơm chớ gội,
Gặp
gà chớ đuổi,
Ba,
Bốn, Sáu chớ hỏi[1].
Anh
học trò nhẩm lấy thuộc lòng và từ giã thầy ra về. Đi luôn mấy ngày đường, một
hôm anh bỗng gặp một trận mưa lớn, lúc ấy anh đang đi giữa một cái đồi vắng, anh
vội vã bước mau để tìm chỗ nấp. Vừa hay trong lùm cây trước mặt, anh thấy thấp
thoáng có một ngôi đình cổ trong đó có mấy người đang ẩn mưa. Anh co cẳng chạy
tới nhưng lúc sắp tới nơi bỗng sực nhớ tới lời dặn đầu tiên của thầy nên anh
dừng lại. Những người nấp trong đình gọi rối rít:
-
Anh kia chạy vào mau kẻo ướt!
Anh
thủng thỉnh đáp:
-
Thầy tôi đã dặn không được trú trong đình, bà con hãy ra đi kẻo nguy.
Mọi
người đều cười khi thấy anh cứ đứng giữa mưa gió mà không chịu vào. Nhưng chỉ
một chốc sau đình bỗng dưng đổ xuống rầm một cái mấy người nấp trong đó đều
thiệt mạng. Anh học trò chỉ còn biết nhỏ nước mắt khóc cho những người xấu số,
rồi lại tiếp tục lên đường về nhà.
Lại
nói chuyện người vợ của anh, sau khi chồng đi học vắng, ở nhà tằng tịu với một gã
trai khác. Hai người say mê nhau và điều ước muốn của họ là làm sao lấy được
nhau mới thỏa dạ. Cuối cùng họ trù tính chỉ có tìm cách khử anh chồng của ả kia
đi thì mới có thể sum họp với nhau lâu dài.
Thấy
chồng về, vợ làm bộ mừng rỡ rồi rít. Chuyện trò được một chốc, vợ đòi đi chợ để
sắm cái ăn, kỳ thực là chạy đến nhà tình nhân báo tin cho y biết để y định
liệu. Anh tình nhân bảo người đàn bà:
-
Về nhớ nấu nước bồ kết trong đó bỏ vào một ít lá thơm cho nó gội. Đêm đến ta sẽ
có cách.
Vợ
trở về nhà nên cứ y kế nấu nước thơm cho chồng gội đầu. Hắn bảo chồng:
-
Mình yêu quý của tôi ơi! Hãy tắm gội thay áo quần đi kẻo đi đường bao nhiêu
ngày bụi bặm. Tôi đã nấu sẵn bồ kết nước thơm cho mình đây!
Chồng
nghe nói đến hai tiếng "nước thơm" thì giật mình, sực nhớ tới lời dặn
thứ hai của thầy, bèn chối từ không gội. Vợ cố dỗ dành đôi ba lần. Thấy vợ nài
mãi, chồng kiếm cách nói cho vợ khỏi phật lòng:
-
Ngày hôm qua khi đi qua bến tôi đã tắm gội sạch sẽ, mình đừng có lo gì cho tôi
cả.
Vợ
thấy nói không được mà đổ đi thì tiếc của, sẵn đầu tóc lâu ngày chưa gội, cuối
cùng đành dùng nước ấy gội đầu cho mình.
Đêm
hôm ấy, khi hai vợ chồng đang ngủ say, thì người tình nhân lẻn đến bên giường
tay cầm một con dao sắc. Tuy đêm hôm tối tăm hắn cũng tìm ra cái đầu thơm một
cách dễ dàng và dùng dao cắt cổ êm thắm và mau lẹ. Khi giết xong, hắn toan gọi
tình nhân dậy để cùng mình khiêng xác vứt xuống sông, nhưng bỗng hắn nhận ra là
mình đã giết nhầm người yêu. Sợ quá, hắn bèn nhanh chân thoát ra khỏi nhà, may
làm sao không một ai biết cả.
Anh
học trò ngủ một giấc mê man mãi đến sáng mới tỉnh dậy. Anh hết sức kinh ngạc
khi thấy vợ mình đã đầu lìa khỏi cổ. Anh vội kêu cứu ầm lên. Làng xóm đổ tới
rất đông. Anh kể hết mọi việc. Có mấy người đồ rằng anh này đã tự tay giết vợ
rồi bày chuyện la làng để đánh lừa mọi người. Bọn hào lý không cần phân biệt
phải trái, sai đóng gông anh lại và giải lên quan.
Sau
những ngày tra khảo, anh học trò vẫn một mực khai rằng mình không can cớ gì làm
hại vợ cả. Vả chăng, nếu đã định tâm giết vợ thì trốn đi, dại gì mà kêu làng
tới. Nhưng anh cũng không có cách gì để chỉ ra thủ phạm, vì thế vẫn cứ phải
giam vào ngục để còn cứu xét.
Một
hôm ở nhà giam người ta phơi thóc để bắt tù phạm xay giã. Anh học trò được bọn
lính cắt cho công việc canh gà là việc nhẹ nhất. Anh ngồi ở một góc sân nhìn
ra. Bầy gà trong trại thấy có thóc thì rủ nhau mò tới kiếm ăn. Nhưng anh học
trò bỗng nhớ tới lời dặn thứ ba của thầy nên cứ để cho gà ăn mà không chịu xua.
Bọn lính gác thấy vậy mắng anh:
-
Sao bảo canh gà mà mày cứ ngồi trơ ra như phỗng thế?
Anh
chỉ cười khì không đáp. Sau đó mấy lần bầy gà lại sà vào, anh vẫn ngồi nhìn và
không nhúc nhích. Thấy vậy, bọn lính cho anh là một tên bướng bỉnh, sẵn roi
quất cho một trận. Anh nhăn nhó kêu khóc rầm lên. Lúc bấy giờ quan đang ngồi ở
công đường, nghe tiếng ồn ào, vội sai người đến xem chuyện gì. Khi biết đầu
đuôi, quan bèn cho gọi anh tới và hỏi:
-
Anh là học trò mà lại là kẻ có tội, vậy tại sao lại bướng thế? Người ta thương
hại chỉ bắt xua gà là công việc nhẹ, sao anh nhất định không chịu làm?
Anh
học trò đáp:
-
Bẩm quan, trước khi ra về thầy học của tôi có cho tôi bốn câu thơ để phòng
thân. Tôi đã theo hai câu đầu, nhờ đó tránh được tai nạn, nên câu thứ ba không
thể không theo.
-
Thơ như thế nào? Quan hỏi.
-
Câu thứ nhất là "Gặp đình chớ tới". Suýt nữa tôi đã tự chuốc lấy cái
chết thê thảm vì trên đường về toan vào ẩn mưa trong một ngôi đình sắp đổ.
Tránh được là nhờ nhớ đến câu ấy. Câu thứ hai là: "Gặp thơm chớ gội".
Chính vợ tôi đã gội nước thơm thay tôi nên bị một kẻ lạ mặt cắt cổ. Còn câu thứ
ba thầy tôi dặn là "Gặp gà chớ đuổi." Vì vậy mà tôi không dám đuổi
gà, chứ không phải bướng đâu.
Quan
vội hỏi tiếp:
-
Vậy còn câu thơ thứ tư là gì?
-
Bẩm quan, câu thứ tư là: "Ba bốn sáu chớ hỏi".
Đêm
hôm đó quan nằm suy nghĩ mãi về câu thơ thứ tư. "Ba bốn sáu chớ hỏi, vậy
thì chỉ có thể là Năm. Phải chăng có một người nào đó tên là Năm đã hạ sát
người đàn bà". Nghĩ vậy, sáng dậy, quan lập tức thảo trát đòi lý hương của
xã xảy ra án mạng phải khai ngay trong xã có người nào tên là Năm hay không.
Nếu có ai đúng tên đó thì phải bắt giữ lại và giải lên quan.
Trong
xã ấy quả có một người tên là Năm. Và chính nó là tình nhân của người đàn bà.
Khi thấy bỗng nhiên vô cớ có nha lại về bắt giải đi, hắn nghĩ rằng nếu không
phải oan hồn của người nhân ngãi bị mình giết nhầm hiển hiện, thì làm sao quan
lại bắt được đích danh như thế. Nghĩ vậy, hắn không đợi tra tấn, tự thú[2].
Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi)
[1]
Nguyên văn chữ Hán là:
Phùng
đình mạc túc,
Phùng
thang mạc dục,
Phùng
kê mạc trục,
Phi
tam, phi tứ, phi lục.
[2]
Theo Landes và lời kể của người Nghệ An, Hà Tĩnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét