Thứ Năm, 19 tháng 1, 2017

ĐÁM MA BÁC GIUN




Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà.



Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà

Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu Kiến Gió bay ra chia phần ...


Lời bình:

Hai câu đầu tưởng như tường thuật sự việc một cách khách quan nhưng kì thực gợi nhiều trăn trở từ nghịch lí đầy màu sắc thế sự: Một con người lao động chăm chỉ, vất vả là thế, theo lô gic của trẻ thơ, lẽ ra phải có một cuộc đời hạnh phúc, thế mà phải chết trong tội nghiệp, cô đơn. Một câu chuyện gợi nhiều sự cảm thông!
Từ câu chuyện đáng thương của bác Giun, TĐK tiếp tục triển khai bài thơ trên câu chuyện cảm động của họ hàng nhà Kiến. Bao nhiêu loài Kiến là bấy nhiêu cách thể hiện nghĩa tình. Họ hàng nhà Kiến cư xử với bác Giun như là con người cư xử với con người:
“Họ hàng nhà Kiến kéo ra
…..
Qua những vườn chuối, vườn khoai vườn cà”
Như vậy, bác Giun từ hình ảnh thực tế là một con giun đất đã thành một bậc bách niên giai lão trong làng, được cả làng trọng vọng, lúc mất được cả làng thương tiếc tiễn đưa. Đám ma càng dài thì nghĩa tình của con người càng thêm phần sâu nặng. Dễ nhận thấy, đám ma bác Giun mang bóng dáng của lối sống nghĩa tình giữa con người với con người ở nông thôn: Chuyện “nghĩa tử là nghĩa tận” – một suy nghĩ truyền thống, tốt đẹp không chỉ của người nhà quê mà của cả dân tộc Việt. Không còn hình ảnh của một hiện tượng sinh học thuần túy trong con mắt trẻ thơ mà là chiêm nghiệm của một người trưởng thành trong suy nghĩ thật sự.

Càng về phần cuối bài thơ, sắc màu thế sự càng trở nên đậm nét hơn:
“Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu Kiến Gió bay ra chia phần”.
Nếu hai cảnh đầu của bài thơ thể hiện trái tim đồng cảm thì cảnh thứ ba lại gợi nhiều day dứt, cho thấy cái nhìn của TĐK về cuộc sống đâu chỉ có màu hồng? Bóng dáng của những hủ tục lạc hậu, của nạn chè chén linh đình ở nông thôn mỗi khi có giỗ chạp, ma chay đổ bóng vào hình tượng đồng thoại. Đâu phải đứa trẻ nào ở nông thôn cũng có cái nhìn phản tỉnh về mặt trái của lối sống cộng đồng ở nông thôn sâu sắc đến thế?


Nguyễn Văn Hiếu

Trích: Từ đặc điểm của thế giới đồng thoại trong thơ Trần Đăng Khoa, suy nghĩ về vai trò của tư duy đồng thoại với việc hình thành nhân cách trẻ em.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét