Thứ Tư, 25 tháng 1, 2017

CHUỘT THÀNH PHỐ


Trong cơn khói lửa, nhiều tập bản thảo của những anh em trong văn giới mà chúng tôi được giữ bị mất mát hết cả, không còn gì. Một sự tình cờ lạ lùng đã khiến cho chúng tôi lại thấy tập này: truyện Chuột thành phố của một cây bút rất quen thuộc trong tuần báo Tiểu thuyết Thứ bảy.

Bạn Tô Hoài hiện giờ còn xa vắng, chúng ta ở đây mà có một quyển truyện như Chuột thành phố đê đọc trong lúc này, thật quý.
Chúng tôi xin nói thêm rằng truyện Chuột thành phố của Tô Hoài viết năm 1945 là lúc quân phiệt Nhật đưong tràn lan sang đất nước ta.
(Mấy lời của NXB Tân Dân 1949 ở Hà Nội)


I

Từng chặng đèn ở khắp nơi, sáng rực lên. Thành phố Sài Gòn chói lọi trong ánh sáng. Mặt trời vừa khuất sau những mái lầu bên phía tây, đèn điện bật lên như ngăn trở không muốn cho đêm tối bén mảng đến. Người ở các ngả các xó lũ lượt ngổn ngang từng đoàn từng lũ kéo ra ngoài đường. Họ đi hóng mát. Vào các tiệm, uống ly cà phê, ly nước đá chanh, ly bốc la-de. Có người ăn hủ tíu, một đĩa bánh hỏi, bánh đập... Người ta ăn và uống rầm rĩ, túi bụi lên. Cảnh sống ban đêm của cái thành phố ánh sáng này đông đảo gấp mấy ban ngày.

Cùng với sự sinh hoạt rầm rộ nọ, có một sinh hoạt khác, cũng tấp nập, cũng đông đảo chẳng kém. Ấy là khi đêm lần lần về khuya, người dần dần vắng bớt đi. Ngoài đường, những ngọn đèn nhiều nến được tắt bỏ, đem về cho thành phố những nét dịu dàng mới. Bấy giờ, mặt đường tròn bóng. Người qua lại lác đác. Rồi thỉnh thoảng mới thấy một hai người đi chơi về khuya hoặc vụt qua một bóng xe đạp của thầy mã tà.

Đó, lúc đó, một thế giới hoạt động khác nổi lên. Trong các khe rãnh, các lối cống hai bên vệ đường, họ ra nhiều không thể đếm xiết. Họ đi mò mò. Nhiều lúc, vụt một cái, nối nhau chạy loắt nhoắt, loắt nhoắt vượt qua mặt đường cánh cung, bên này sang bên kia. Đó là khi đi chơi tiêu khiển, hoặc cũng là khi đi uống ly cà phê, ăn đĩa bánh hỏi, chững chạc như mọi người ta. Thành phố của loài người nhưng quá nửa phần đêm về sáng nó thuộc về thành phố của họ.

Ấy là loài nào? Thưa, loài chuột, họ chuột chúng tôi. Phải, chúng tôi gớm ghê như thế đó, chứ sao. Chúng tôi thực xứng đáng với cái địa vị được đem ví von với loài người. Này, thử để ý xem: khắp bốn bể năm châu, chỗ nào có vết chân người, tất chỗ đó có vết chân chúng tôi. Người ở đâu, chúng tôi ở đây. Người ăn gì, chúng tôi ăn nấy. Chúng tôi chỉ hơi khác khác với họ một điều. Như họ thì to lớn, mà chúng tôi thì bé, chỉ bé bằng cái cẳng tay người ta. Tiện đây xin cải chính một điều. Xưa nay, thiên hạ tưởng chúng tôi không biết nói. Xà! Bậy hết sức. Chúng tôi đây cũng biết nói như ai chớ! Chí chí, chúng tôi nói đó. Chúng tôi nói tiếng của chúng tôi. Cũng như người nói tiếng của người. Có cái ngôn ngữ bất đồng, nên cứ tưởng lẫn như vậy. Mà nói về những điểm hơn loài người chúng tôi đây lại còn hơn nhiều. Họ nói, chúng tôi nghe được rõ ràng từng tiếng và họ không nghe được tiếng chúng tôi. Chúng tôi, mới sinh ra đã có râu, có răng. Trẻ con nhà các người nứt mắt đâu đã có răng, đâu đã có râu! Ấy là chưa kể đến cái đuôi dài và nuột nà rất mỹ thuật của chúng tôi, loài người không bao giờ có thể có được rồi. Kém những chỗ ấy nhé!

Nhưng mà hỡi mọi người, mọi người yêu quý của tôi, tôi nói khuếch khoác thế, tất ai đó hẳn đã tức lắm. Chắc có người toan mắng: "Chuột nhép, sống núp bóng ngưòi ta, bặng nhặng cái gì? Ông lại mua con mèo về thì có mà bỏ đời..." Thôi, thôi xin ai đừng mua ông mèo về. Tôi nói đùa mà chơi đấy. Thực ra xưa nay chúng tôi vẫn tôn phục loài người. Người đã làm nhà để cho chúng tôi có nơi ở ké. Người lại làm ra cái bếp để nấu nướng thức ăn, khiến cho chúng tôi có chỗ ăn kẹ. Thỉnh thoảng, người ta lại nuôi một vài chú gà con, để cho các chuột cụ trổ tài quắp trộm.

Chúng tôi lại biết rằng, loài người cũng chẳng khác loài chúng tôi. Ai ai cũng phải làm việc, để mưu sự sống còn. Biết bao nhiêu chông gai đầy rẫy trong lối đi của con đường đời. Vất vả quá, cực nhọc quá. Nhưng có vất vả, có cực nhọc mới đáng được sống ở trên đời, phải không.

Nói chi ai, như tôi đây. Tôi chỉ là một chàng chuột nhỏ bé trong cái quần chúng chuột ở khắp thế giới. Đời sống của tôi cũng vất vả, cực nhọc lắm nhưng tôi không lấy điều đó làm buồn, trái lại nữa. Tôi vui vì những luân lạc cũ. Tôi vui vì nỗi, có lăn lóc, đời mới dạy cho mình được lắm điều hay.

Tôi chắc bạn đọc yêu quý đương đợi tôi kể cho nghe một cuộc đời phiêu lưu, mạo hiểm chi đó. Bởi tôi biết các bạn thích loại chuyện này lắm. Không, đây chỉ là chuyện của đời tôi. Nó có được như những phiêu lưu, những mạo hiểm thì còn phải hỏi lại xem thế nào đã. Tôi chỉ biết rằng tôi muốn nói về những sự gian nan của một cuộc sống, khi ta phải tranh sống để kiếm miếng ăn. Và tôi cũng muốn nói tới một sự giác ngộ cao cả mà tôi đã nhận được, sau nửa đời lăn lóc.

Hôm nay, vui câu chuyện với các bạn yêu quý, tôi xin kể.

II

Khi còn ít tuổi hơn bây giờ, tinh tình tôi khá kỳ khôi. Tôi cũng không còn nhớ rành rọt mấy. Nhưng có điều nhớ chắc là tôi rất huếnh hoáng và rất nóng nảy.

Tôi hay soi bóng vào trong vại nước. Tôi gật gù cho tôi là một trang thiếu niên anh tuấn, là một mã thượng phong lưu khách chi đó. Ôi chao, này này các chú thử ngắm tôi mà xem. Đầu tôi nhỏ và nhọn hoắt. Những anh chuột đầu nhỏ, thường là thông minh. Tôi thuộc vào hạng chuột nhỡ. Mình tôi phủ một lượt lông mượt bóng như nhung nõn. Hai hàng ria mép của tôi dài vênh lên. Bốn chân tôi nhỏ nhắn. Đôi mắt tôi long lanh.

Cả ngày, tôi soi ngắm bóng mình, tôi lại nhởn đi đàn đúm với một lũ trong xóm, cũng trạc tuổi với tôi. Tôi làm trùm bọn họ. Bởi tôi chạy nhanh, tôi nhảy, tôi khỏe mà lại biết võ. Biết võ? Tôi biết võ. Rồi tôi rong chơi lu bù. Có khi tôi đi mất mặt đến mấy ngày.

Thời đó, tôi ở với anh chị tôi. Mỗi bận đi chơi về, chị dâu thường cằn nhằn, rầy la tôi. Tôi lấy làm khó chịu. Tôi cho chị tôi là một ả lắm điều. Có một lần, anh tôi mắng tôi :
- Mày chưa kiếm nổi cơm ăn, thì tao bảo gì phải biết nghe? Sao lại cứ chơi nhông cho hư thân mất nết đi.
Tôi cãi :
- Anh không được bỉ tôi như thế. Sao anh lại bảo tôi là không kiếm nổi cơm ăn.
- À, mày cũng lý sự giỏi nhỉ? Mày lý sự cùn, biết không? Mày giỏi nói, mày hãy đi mà kiếm cơm lấy, tao xem!
Tôi hếch mõm, cười nhạt :
- Anh đã đuổi, tôi xin đi...
- Mày đừng nói nặng. Tao không đuổi mày, nhưng...
- Nhưng anh đã nghe xúi bẩy mà đuổi tôi thì cũng thế.
- Tao nghe ai?
Tôi đáp lừng khừng :
- Nghe ai thì anh biết.
Anh tôi cười nhạt :
- Tao hiểu rồi. Mày nghi cho chị dâu đã xui tao. Vì mỗi khi mày đi chơi lếu láo ở đâu về chị thường nói này nói nọ. Đừng ngờ xằng như vậy. Cái gì phải nhìn tận mặt, vạch tận trán hãy nên mở miệng. À, mày cũng khá nhỉ? Tao chỉ nói có thế, mà mày dám bảo rằng "anh đuổi tôi". Được, đi hay không, tùy ý. Mày đã lớn rồi đấy. Ra ngoài đường, trông cái nọ ngó cái kia, cho rạn bớt kẽ mắt ra. Cũng phải.

Tôi quyết định rồi. Tôi quyết định chẳng ở với anh. Tôi phải đi chứ. Dủ sao, tôi cũng cần có một cuộc đời riêng của tôi, không ỷ lại. Hôm sau tôi xin phép đi, tôi đội ơn công anh chị nuôi tôi bấy lâu. Tôi thành thật nói thế.
- Mày đi thực à?
- Xin anh chị đừng tưởng tính tôi nóng nẩy hay tôi giận dỗi gì anh chị. Không phải thế. Tôi đi là vì cuộc sống của tôi.
Anh tôi gật gù, liếc mắt nhìn tôi :
- Được, mày muốn đi thì đi. Nhưng tao cũng cứ dặn thêm mày rằng khi nào muốn về thì cứ trở về tự nhiên.
Chị dâu tôi còn tha đến cho tôi một miếng thịt gà. Có cái ý ngầm rằng chị chẳng lòng nào mà ghét bỏ em đâu. Tôi biết thế. Tôi ơn chị và gặm miếng thịt ngon lành.
Kể từ hôm đó, tôi đi khỏi nhà anh chị tôi. Lòng đầy hy vọng mới mẻ. Việc trước mắt, tôi đi tìm các bạn chơi của tôi mọi ngày. Để báo tin cho họ biết rằng từ giờ thì lúc nào tôi cũng có thể đi chơi với các anh em được. Tôi thấy họ hơi ngạc nhiên. Rồi một anh hỏi :
- Mày bỏ nhà thực chứ?
- Sao lại không thực! Tao đi, một điều chúng mày chẳng vẫn ao ước đó sao?
Tôi đáp thẳng thắn :
- Tao ăn với chúng mày. Chúng mày vẫn thường mong được có tao ăn chung đó sao?
Một thằng đạo mạo, thủng thẳng nói :
- Thưa quý hữu! Bạn bỏ nhà đi như thế, thực là một điều dại dột. Mọi khi, chúng tôi vẫn nói láo lếu thế chứ sự thực làm sao mà kiếm ăn, nuôi thêm được bạn. Các nhà ở xóm này, người ta cất thức ăn kỹ quá. Chúng tôi gầy rụng cả lông đi đấy... Bạn hãy trở về với anh chị của bạn. Ản cho no, ngủ cho kỹ. Rồi thỉnh thoảng, lại đây, anh em ta khiêu vũ chơi, có phải thích biết bao nhiêu.
Tôi tức quá :
- Chúng bay là những đồ tồi. Chúng bay sợ thiệt, đuổi tao đi đó phỏng? Thực tao không ngờ. Nhưng mà, được được. Tao cũng không cần chúng bay. Trước khi tao đi, chúng bay có giỏi, ra đây tỉ thí với tao một keo.

Tôi vồ một thằng đứng gần tôi nhất, nhay cho nó một miếng. Lập tức, cả bọn chúng xúm lại chiến tôi. Giá cứ đánh nhau tay đôi, tôi quyết chơi chết có thằng. Nhưng chúng đông quá. Những tên nào xưa kia kể vào hàng thân nhất của tôi, thì bây giờ lại càng giả tôi đau tợn. Đau quá, tôi ngã lăn chỏng bốn vó lên. Chúng bỏ chạy vào các hang, rồi lẩn thẳng. Giá tôi có chết ở đấy, chắc cũng đành là thối mạng.

Bò dậy, tôi nhìn quanh quất, không có bóng vía một tên nào. Tôi buồn và cũng nản hết sức. Buồn cho tình bạn, chán cho cảnh đời, vời trông tương lai mờ mịt. Chao ôi! Tôi chắc chúng nuôi tôi. Tôi chắc chúng quý tôi. Tôi chắc chúng...

Hão tất. Chúng lại còn đánh tôi là đằng khác. Ra tranh sống với thiên hạ, không phải dễ dàng đâu. Anh ơi! Lúc này em lưỡng lự muốn quay về.

Tôi tự gạt ngay đi những ý tưởng đó. Xảy ra sự đáng tiếc này, chẳng qua là bấy lâu nay tôi mù, tôi chọn lầm bạn. Không nên vì một thất bại mà đã ngã lòng.
- Phải đi chứ! Phải đi!
Tôi nghĩ luôn thế. Trong im lặng, tôi lồm cồm chui ra ngoài bãi cỏ trước ngõ.

III

Bấy giờ đương là ban đêm vắng vẻ. Tôi bò đi dễ dàng qua một quãng dài, lần hết phố nàv tới phố khác.

Tôi quyết đi thực xa. Xa nhà của anh chị tôi. Và xa chỗ ở của lũ bạn xấu kia. Tôi muốn sống riêng biệt.

Trong cái thành phố đồ sộ này, tìm đâu mà chẳng ra một chỗ để nương náu tấm thân. Tôi kiếm, tôi ra kiếm mãi. Nhà cửa, đường sá và bờ bãi thì rộng thực, nhưng tìm một chỗ nương thân không phải dễ. Khắp nơi nơi, chỗ nào cũng đông nghịt. Có lẽ trên ván có bao nhiêu người ngồi thì dưới gậm, trong xó, cũng có gấp đôi từng ấy chuột.

Mãi sau, tôi cũng tìm được một nhà. Nhà này khá lắm, không ngờ mà tôi lại khéo tìm như vậy.

Căn nhà hai tầng, tường vàng hoe, cửa chớp màu xanh nõn. Tôi thong thả bước vào, mát mẻ, thánh mãnh lắm. Nhà ít người ở, mà lại rộng rãi, nên tôi tha hồ sạo sục, chẳng một ai nhòm thấy. Nhưng có một điều lạ, không có dấu vết một nhách chuột nào đã ở đây. Chẳng lẽ mà họ lại chưa tìm tới chỗ rộng rãi này, trong khi ở những nơi khác phải từng đàn mấy chục mống chen chúc? Tôi chạy nhoăn nhoắt hết nhà trên xuống nhà dưới. Tôi lại cố ý kêu lên mấy tiếng. Chẳng có ai đáp lời.

Ra sân, vục mõm vào máng bể, tôi uống một ngụm nước lã. Nước bám lên hai bên mép ria tôi. Tôi đứng rún rê, rung hai làn ria, ngẫm nghĩ.
- Cha chả là sướng! Chưa ai đặt chân đến chỗ này. Ta là kẻ đến đây trước tiên. Tha hồ tung hoành. Đứa nào đến sau, phải vào hàng tôi tớ của ta. Ta sẽ có biết bao nhiêu là bộ hạ.

Tôi lừng khừng bò vào. Tôi chui xuống gầm cầu thang, đánh một giấc ngủ ngon lành.

Đến chiều, tôi thức dậy, bởi tiếng kèn hát kêu ọ ọ bên tai. À ra bữa cơm chiều đã xong, nhà người ta đương mở máy kèn hát nghe chơi. Nhà này chỉ có hai vợ chổng, hai đứa con và một anh bếp. Có con chó Ki Ki to bằng con bê lúc nào cũng nằm chồm chỗm đầu hè. Tôi ở trong khe, trong ngách, dù có trông thấy tôi, Ki Ki cũng chẳng làm gì tôi tốt.

Tiếng kèn hát vui quá. Có lẽ tôi cũng bò ra nghe chơi. Nhưng bụng tôi đã đoi đói. Tôi nghĩ mình cần phải ăn. Giờ ăn của người xong, bây giờ là giờ ăn của tôi. Tôi đủng đỉnh xuống bếp. Còn cái gì tôi chén tuốt. Có ai vào đây nữa, mà ăn tranh. Con Ki Ki đã có phần của Ki Ki. Chỉ một mẩu bánh, một miếng thịt là đủ bữa ăn ngon của tôi.

Tôi vào bếp. Ồ, cái bếp lạ dữ! Một căn buồng vuông vắn, chiếc ống khói cao ngút và một cái tủ vuông chằng thép mắt cáo. Trong tủ, treo lủng lẳng mấy miếng thịt bò, lăn lóc mấy cái củ đậu. Ngoài ra, trên gạch, trên tường, sạch như lau, không một thứ khả dĩ có thể bỏ vào miệng được. Tôi tìm đến chậu nước vo gạo. Nước vo gạo không có một giọt. Mà thùng đựng rác thì tịnh chẳng thấy đâu.

Tôi đành ôm bụng móp, mò lên nhà trên. Lại đánh mấy ngụm nước lã, rồi ngủ kềnh ở một xó gậm thang gác. Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm. Tôi đánh hơi được một mùi lạ lùng ghê gớm. Hai cánh mũi tôi nở hếch. Cả những chiếc răng nhọn cũng thò ra. Tôi hít vào những hơi thực dài. Ra đó là mùi thịt bò xào hành tày. Thịt bò xào hành tây thì thơm hết nói, thơm điếc cả mũi. Tôi muốn nhảy ngay xuống bếp. Nhưng vừa thoáng có con Ki Ki đi qua ngoài thang gác, tôi phải đứng nán lại. Ki Ki ra ngay ngoài đầu thang, nằm ịch xuống ngủ gối đầu vào hai chân trước. Hết lối ra của tôi. ức quá, tôi lầm bầm rủa nó. Nhưng sau tôi cũng tìm được một lối khác trèo xuống bếp. Tôi thấy anh bếp vẫn đương khua hai đầu đũa vào chảo thịt. Khói thơm bốc ngạt ngào. Tôi cứ đứng trong xó mà hít bằng mũi, hít bằng mõm và muốn hít cả bằng mắt, bằng tai nữa. Chẳng bao lâu, anh bếp xào xáo đã xong. Anh đổ thịt vào một cái đĩa to rồi bưng lên buồng ăn trên gác. Trước khi bưng đĩa thịt lên, anh đem bỏ cái chảo ra ngoài vòi nước máy, vặn vòi nước chảy xuống ồ ồ. Không nhẽ tôi lại đi theo anh lên buồng ăn. Có phải người ta làm cho tôi nhắm đâu mà tôi dám đi theo. Cái khôn ngoan của tôi, nếu tôi hiểu, là phải đứng nguyên dưới bếp, đợi khi anh mang đĩa thịt xuống, còn miếng nào tôi chén miếng ấy. Tôi đứng yên mà đợi anh bếp.

Chàng đã xuống, hai tay bưng khư khư cái đĩa. Tôi mừng quýnh, suýt nữa kêu bật ra thành tiếng. Nhưng cái đĩa chỉ còn là cái đĩa không. Một chút nước mỡ, anh ta cũng ngửa cổ liếm sạch. Rồi rửa bát, cất bát vào chạn.

Xét ra, ở trong cái nhà này, cái gì có thể ăn được, họ đều cho vào cái chạn chăng lưới mắt cáo khóa tách lại. Tôi mất đường làm ăn! Nhà này không có vại gạo, không có chĩnh nước mắm, không có những đồ bếp núc như mọi nhà khác. Thực ra, tôi cũng chỉ mới biết được có cái nhà của anh chị tôi ở, từ tâm bé tới giờ.

Tôi lại bị đói một bữa nữa. Tôi vốn háu đói. Mới chỉ đói thế vậy, mà đã nôn nao, choáng váng cả người. Đói, lại uống nước lã, lại ngủ. Ngủ cũng là cách để quên đói. Nhưng đói quá, rồi cũng không thể nhắm mắt mà ngủ được. Hai mắt tôi thao láo. Uống mãi nước lã, bụng xót như cào. Cứ thế, liền ba bốn ngày không bói được vật nhỏ gì bỏ vào miệng.

Cho đến ngày thứ tư, tôi đành phải bỏ đi. Tiếc căn nhà rộng rãi, kín đáo, ngăn nắp quá. Nhà đẹp, nhưng không có cái ăn, cũng chẳng thể ở được.

Tôi chui xuống công, lủi thủi. Khốn nạn, còn mấy nả hơi sức mà chẳng bò lủi thủi. Bốn năm ngày nhịn đói. Bụng tôi tóp xuống, giơ hai hàng xương sườn. Tai tôi rụng trắng cả da. Bò được một quãng xa, tôi vừa đứng lại nghỉ, thì đụng đầu với một gã chuột. Anh này cũng trạc tuổi tôi, nhưng béo mập đến cả đuôi. Anh ta hỏi tôi :
- Đi đâu mà cử rử vậy?
Tôi không trả lời, chỉ dùng đuôi mà trỏ vào căn nhà hai tầng phía sau lưng. Anh ta cười ha hả :
- Nhịn đói phỏng?
Tôi gật.
- Mấy ngày rồi?
- Bốn.
- Dáng hẳn đằng ấy ở vùng khác đến?
Tôi gật.
- Thảo nào. Vùng này, ai còn lạ cái nhà đó. Nhà gạch, mái ngói nhưng không thể xơ múi gì.
- Tại sao thế?
- Họ ăn com tây chứ sao! Không có gạo. Không có nước mắm. Nghĩa là không có thứ gì ta lấy được. Ở đấy thì chỉ chết đói nhăn răng ra.
- Tôi không ngờ...
- Cũng nên ngờ một chút chứ. Đằng ấy tính, cái nhà gạch đẹp đẽ thế kia, làm sao mà cánh ta không có ai đến ở? Ắt cũng vì cớ gì chớ? Thôi, tôi kkuyên bác, từ giờ có đi kiếm ăn, đừng bén mảng vào những cửa nhà giầu mà nguy hiểm.
Bỗng nhiên, tôi run rẩy khắp người.
- Sao thế?
- Không... hề... gi...
- Nóng lạnh phỏng?
- Không...
- A, bệnh đói rồi. Để tôi cho một miếng.
Nói xong, anh ta chạy miết. Một chốc, anh tha đến cho tôi nửa quả chuối tây. Tôi ngoạm đâu có độ ba miếng, hết nhẵn thì cũng tan cơn run rẩy, dạ đã nguôi nguôi.
- Thưa, tên anh là gì?
- Họ kêu tôi là Chuột Lốc, bởi tôi béo tròn lông lốc.
- Ơn này, không bao giờ dám quên. Em mong có ngày tái ngộ.
Chuột Lốc cười :
- Có hề gì. Anh em giúp nhau là sự thường.

IV

Tôi đã tìm được một chỗ ở mới. Nơi này khác nơi trước, tôi đã biết sợ những cửa cao nhà rộng rồi. Bây giờ tôi mò tới một cái ngõ hơi lầy lội. Tôi nghĩ: đất này ắt có thể dung thân. Tôi vào núp ở một căn nhà trong ngõ.

Địa thế nơi ấy phức tạp. Nhưng đứng ngắm nghía một lúc, cũng có thể nhận được. Đó là một căn dài, chia từng gian một. Một con đường đi vào, rác rưởi nhớp nháp. Tôi đi qua các cửa sau, nghe nhà nào cũng lích rích tiếng chuột và trông thấy lủng củng những mẩu đuôi thò ra ở các khe chạn. Đông quá. Tôi đã ngán, tưởng có lẽ mình không còn chỗ để ních đủ một bàn chân vào. Nhưng may sao, trong số những gian nhà này cũng có một gian không có tiếng chuột kêu và không trông thấy đuôi chuột ngoe nguẩy. Tôi vào.

Quả nhiên là nhà vắng. Cũng văng vẳng đâu tiếng chuột lích rích tận sau nhà. Như vậy, có thể biết trước rằng chỗ này có thể kiếm cách sinh nhai. Thú thực, kể ra giá có cố bò đi nơi khác cũng đã mỏi cẳng lắm. Đành ở lại, muốn sao thì sao.

Chiều hôm ấy, một trận mưa lớn giáng xuống. Nước mưa xối mạnh như nước lũ, chảy cuồn cuộn trong ngõ. Bấy giờ đương là mùa mưa, ở Sài Gòn, thường có những trận mưa dữ như vậy. Nước như đổ từng chậu nước xuống đầu. Chuột tôi nằm he hé cặp mắt, nghe mưa đều đều. Tuy không có cái tâm hồn khác đời, để nghe mưa với một thú vị riêng, nhưng tôi cũng nghĩ rằng trời mưa thi dễ ngủ. Tôi ngủ một giấc li bì trong tiếng mưa ồ ạt.

Tôi chợt bừng mắt. Nước lạnh ở đâu xói vào lưng. Chưa kịp ngóc đầu, nước dội luôn vào tai. Trời, sao thế này? Xung quanh tôi, nước dâng lên mênh mông. Mẹ ơi, lụt rồi. Mà lụt ở trong nhà. Nước ngoài phía cửa tuôn vào ồ ồ. Trời đã tối. Trong nhà mờ mịt, không trông rõ gì cả. Trên chiếc giường giữa nhà, nghe có tiếng ngáy kho kho. Dáng hẳn chủ nhà đã ngủ. Tôi không thể trù trừ nán lại được. Những đồ đạc nhẹ trong nhà như guốc, như chổi đã bắt đầu trôi loanh quanh, đụng cả vào bụng tôi. Mà nước óc ách vào hai bên tai tôi rồi. Đứng lại đây, chết đuối mất. Tôi co bốn cẳng, bơi lờ lờ đi. Nước lạnh thấm vào người, rét quá. Tôi phải tìm một cái gì đê leo lên. Bốn phía những nước. Nước đánh sóng vào bốn bề tường, như tiếng ếch kêu. Tôi vẫn chưa bíu được vào đâu. Tôi leo lên một chiếc guốc, mảnh guốc lộn đi, hất trả tôi xuống nước. Mãi sau, tôi chui lên được một cái bục gỗ.

Vừa lên tới nơi, tôi cụng đầu vào một gã chuột. Tuy trời tối, nhưng tôi quắc mắt, cũng trông thấy rõ. Gã chuột đã đứng tuổi, mình gầy như cái que nứa, đuôi tuột hết cả lông.
Tôi hỏi :
- Bác ở nhà này?
Gã thưa :
- Vâng.
- Ở một mình?
- Trước có cả vợ và con tôi.
- Bây giờ ở đâu?
- Ở đây đói quá, vợ con tôi bồng nhau đi nơi khác rồi.
- Khổ mà bác cũng cứ ở?
- Đành vậy, chứ biết tính sao. Tôi ốm yếu, không đi được xa. Bác là người đâu ta?
- Tôi ở trên kia, xa lắm.
- Bác xuống làm ăn ở đây?
- Tôi cũng định thế. Bác bảo ở đây khổ sở là nghĩa thế nào?
- Bác muốn biết, thì cứ ở đây ít bữa. Còn bây giờ tôi buồn ngủ lắm.
Nói xong, chuột nhắm mắt và ngủ ngay tức thì. Tôi đứng đơ ra, rồi luẩn quẩn, cũng nằm phục xuống, gậm nhấm, vuốt lông cho đỡ ướt. Rồi cũng chợp mắt lúc nào.
° ° °
Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló ánh sáng vào đầu tường, nước ở trong nhà đã rút cạn hết. Trên nền gạch, đó đây ngổn ngang mấy chiếc guốc bơ vơ. Gã chuột gầy đã đi đâu mất, không biết. Tôi bắt đầu cuộc dò xét trong nhà.

Nhà vắng. Chủ nhà đã vác xe đạp đi đâu từ sáng sớm. Giữa gian buồng, có một cái giường nhỏ. Bên cạnh một chiếc tủ cao khóa kín. Gần đấy, một cái mắc áo, trên tường có một bức địa đồ. Dưới đất, xê cửa, một chiếc bàn con con, trên để mươi thứ lặt vặt và lủng củng mấy đôi giầy vải. Trong nhà, chỉ có thế. Không thể tìm ra một vật gì hơn nữa. Chĩnh gạo không. Chai nước mắm không. Đến mấy ông vua bếp cũng không có nốt. Chăng hiểu chủ nhà này họ sống ra sao? Quái thực.

Tôi lần ra bãi cỏ, phía cửa sau, thấy gã chuột gầy đương đứng ngẩn ngơ, vêu mõm, nhìn xuống rãnh. Anh ta vừa nói vừa khóc :
- Bác ấy ơi! Đêm hôm qua, tôi mất một người anh em họ... hi... hi... Chú Chuột Chù nhà tôi...
- Chú ta đi đâu?
- Chết đuối. Nước lụt vào nhà, chết rồi.
Chuột Chù không biết leo, phải nước ngập mà chết, có lý lắm. Tôi khuyên anh chuột gầy không nên khóc nữa.
- Chết rồi, khóc cũng bằng thừa.
- Từ đây mà đi, một mình tôi thui thủi trong cái nhà này...
- Có tôi nữa chứ!
Anh ta ngước mắt nhìn tôi, hơi ngạc nhiên :
- Bác bằng lòng sống ở đây?
- Chúng ta nhận nhau làm anh em, ở chung cho vui nhà.
- Ở đây khổ lắm.
- Chả mùi gì. Tôi chịu khổ đã quen. Bây giờ bác dẫn tôi đi kiếm cái ăn. Tới giờ ăn rồi.
Gà dẫn tôi đi. Gã gầy lắm, lại thọt một chân sau.
- Tôi có tật từ khi mới sinh. Bởi vậy, tôi biệt hiệu là Chuột Thọt.
Chuột Thọt tập tễnh đưa tôi đến cái bàn nhỏ, bảo tôi cùng leo qua mặt bàn. Tôi leo. Mặt bàn có một cái đĩa trong đựng một bánh sà boong. Tôi hỏi :
- Thức ăn đâu?
- Đó.
- Bánh sà boong này a?
- Phải chớ.
- Mẹ ơi! Ai lại ăn sà boong!
- Hai năm nay, tôi chỉ ăn sà boong.
- Hèn chi, anh gầy như con mắm. Sà boong để giặt quần áo, ăn vào bụng, nó nạo ruột nạo gan ra, có mà chết toi.
- Ăn mãi cũng quen. Vả lại, ở đây chỉ có một thức này để ăn. Tôi chưa biết thịt là gì cả.
Rồi anh cắm đầu xuống miếng sà boong. Hai chân gãi gãi, mõm húc húc, nhai nhỏ nhẻ từng ít một. Tôi cười bảo Chuột Thọt :
- Anh đừng ăn nhảm nhí vậy nữa. Rồi tôi kiếm gạo kiếm thịt cho anh cùng chén.
Nhưng gã cũng đã chén xong bữa sà boong hắc nhức mũi. Tôi đi kiếm. Nhưng trong nhà không có một thức gì ăn, ngoài bánh sà boong đó. Tôi hỏi :
- Vậy chủ nhà ăn gì?
- Họ không ăn cơm đây. Chỗ này chỉ là chỗ nằm ngủ.
Mò mãi không ra một thức gì ăn, tôi cũng phải húc mõm ăn sà boong, cắn miếng sà boong vào miệng, khó ăn thì ít - vì tôi đã quá đói - mà ngượng với anh Chuột Thọt nhiều. Đã trót khoác lác với anh. Sà boong đắng quá mà tôi cũng xơi được đúng một nửa. Thấy thế, Chuột Thọt sợ, bảo :
- Chết tôi rồi! Ăn lắm thế này, người ta biết.
- Sợ quái gì?
- Rồi người ta cất đi thì mất ăn.

Nhưng mà đói thì không đừng được. Tôi ăn khỏe gấp mấy Chuột Thọt. Buổi chiều, tôi lại đánh hết một góc bánh sà boong, mặc dầu buồn nôn quá và bụng tôi cứ sôi lên ùng ục. Bánh sà boong to, bây giờ chỉ còn như một quả cau. Chuột Thọt sợ xanh mắt, run từ râu xuống đuôi. Hôm sau, chủ nhà, buổi sáng rửa mặt, nhìn đến bánh sà boong. Chủ nhà là một chàng trẻ tuổi, đi làm cho một xưởng máy. Chàng ngắm nghía bánh sà boong có những vết chân, vết răng chuột. Chàng cau mặt, lẩm bẩm:
- À, mấy con chuột nhãi! Phải cất sà boong vào tủ mới được.

Lập tức, chàng ta bỏ bánh sà boong vào tủ và khóa tách lại. Tôi nghe tiếng anh Chuột Thọt tấm tức khóc dưới gậm giường. Chắc anh oán tôi lắm. Mọi khi có một mình anh ăn - anh lại ăn yếu - nên chẳng thấm thía vào đâu. Tôi nhá hai bữa thì bằng anh rỉ rả mười bữa lọn. Chao ôi, khổ anh chuột tàn tật này. Tôi lại tìm lời an ủi anh. Và để an ủi cả tôi nữa. Vì tôi cũng đương lo lắng về vấn đề ăn không kém gì anh ta. Các nhà bên hàng xóm cũng đông chuột lắm. Và xem chừng cũng nghèo khổ, bữa no bữa đói như nhau. Vì dường như xóm này là xóm của những người đi làm, không mấy ai ăn cơm nhà.

Chúng tôi bắt đầu nhịn đói. Đêm đến, nghe tiếng anh bạn nhai giấy ken két. Bỗng dưng, tôi ở đâu mò đến đây để làm khổ anh. Một đêm, tôi gọi Chuột Thọt :
- Đi theo tôi.
- Đi đâu?
- Ăn.
Anh theo tôi liền. Xuống dưới gậm bàn, tôi nhìn đôi giầy, nói :
- Những cái này ăn được. Còn ngon hơn giấy.

Tôi ngậm chiếc dây giầy. Có đoạn tôi nuốt chửng. Đoạn thì tôi nhả ra cho anh bạn ăn. Ăn dây giầy chẳng khác ăn đất. Vậy mà chúng tôi cứ nhấm, cứ nhai lấy được. Song dù sao cũng có vị hơn giấy vụn. Chúng tôi đỡ đói được một phần ngày.

Nhưng, sự đỡ đói trong một lúc lại làm hại chủng tôi nhiều, mà lúc ăn chiếc dây giầy nhạt nhẽo, tôi không nghĩ tới. Sáng hôm sau anh chàng chủ nhà trở dậy đi làm, vớ giầy để đi, thấy đứt mất một chiếc dây. Chàng ta cau mặt, lẩm bẩm "Chắc, lại chuột!". Nhưng chàng vẫn xỏ đôi giầy đứt dây vào chân, rồi đóng cửa lại, đạp xe đi làm như thường.

Ở nhà, chúng tôi lại đói. Bởi vậy, lẽ cố nhiên chúng tôi lôi đôi giầy vải trắng ra gậm. Chúng tôi vật giầy ra cắn rách toạc mép một chiếc.

Chẳng may, chiều về anh chủ nhà biết ngay. Anh ta gầm lên :
- Lại chuột! Chuột làm hại tôi!
Rồi anh cất cả hai đôi giầy vào tủ, khóa lại. Thôi thế là xong.
Đứng trong gậm, chúng tôi nhìn nhau, ngao ngán. Chúng tôi biết, nếu những đôi giầy cứu tinh đó bị cất đi, không thể còn một cái gì mà ăn cho đỡ đói lòng được nữa.
° ° °
Anh Chuột Thọt lại khóc ti ti. Tôi yên lặng nghĩ một mưu kế mà chẳng ra mưu kế gì. Đó là cái cách của chúng tôi, hai ngày sau khi chủ nhà cất đôi giầy. Rồi tôi đi cầu cứu các bạn láng giềng. Nhưng ông nào, bà nào cũng nghèo mướp, lo kiếm cơm cho đàn con đông chưa đủ, thừa của đâu mà giúp cho ai được.
Tôi bảo Chuột Thọt :
- Ta phải bỏ cái nhà này, đi nơi khác. Trời đất rộng rãi bao la, chẳng nên chỉ rúc xó nhà mà chịu đói.
Chuột Thọt bùi ngùi :
- Một mình anh đi thôi.
Anh giơ cái chân tập tễnh lên. Tôi hăng hái :
- Anh cứ cố đi. Anh cứ tin rằng có thể đi thì đi được. Chúng ta đi ngay chiều nay. Nếu trì hoãn tới sáng mai, thì đến đói lả đi mất.

Tôi còn khuyến khích Chuột Thọt nhiều câu nữa. Bùi tai và hứng chí, Thọt cũng bằng lòng. Ngay chiều đó, chúng tôi đi.

Đi được một quãng, Chuột Thọt rên la ầm ĩ. Bởi cái chân đau không thể bước được. Chuột khóc :
- Chết đói thì chết, tôi đành quay trở lại. Chân tôi đau thế này, không thể đi được nữa.

Chuột Thọt trở về. Tôi đứng trông theo cái bóng thất thểu cho tới khi khuất hẳn, mới lừng khừng đi. Từ đấy, không còn có lần nào gặp nữa. Không biết anh ta làm sao mà sống được, hay chỉ ngắc ngoải được vài hôm.

V

Tôi còn trải qua trăm cay nghìn đắng, nỗi cơ cực này đè lên nỗi cơ cực kia. Có khi nhịn ăn tới năm bữa. Có khi đói luôn hai ngày. Thế rồi cũng quen. Ra ai cũng sống vì thói quen. Và sở dĩ nên quen được cũng do một đức tính mà tôi đã luyện cho có được, trong bước đường gian nan. Đó là sự kiên gan không nản chí. Bởi nếu không, kiên gan, nếu nản chí, chắc tôi đã quay về với anh trai, chị dâu tôi từ lâu, cho được sự no thân ấm cật. Nhưng không, tôi đã nghĩ trái lại. Tôi cứ đi. Thôi kể chi nỗi khổ sở dọc đường, làm sao chỉ vài dòng mà hết được gian truân.

Trong đoạn đường đã trải qua, chỉ một việc nhỏ này, cũng đủ khiến bạn đọc có thể phải kinh hãi. Bữa ấy, tôi ngủ ở một nhà đầu phố. Chẳng may, lại trọ phải một nhà toàn chuột giặc, chuột kẻ cướp. Nghĩa là chúng nó chuyên phá hại của người ta. cắn quần, cắn áo. Cái gì cũng tha. Cái gì cũng gặm. Thậm chí, chúng đùa nhau, nhảy qua cả ngực người ta đương nằm ngủ. Rồi khi buồn răng, muốn gặm nhấm, chúng lẩn thẩn kéo ra gặm cả chân những người đương nằm. Người ta triệt chúng bằng mọi cách. Nuôi mèo. Bỏ bả, giăng bẫy không vào. Còn hễ trông thấy bác mèo dữ, chúng trốn biệt. Nhưng không phải đi hẳn. Lúc nào trời đất thái bình chúng lại trở về như thường.

Tôi trọ, đúng vào cái đêm người ta sửa soạn một cuộc đánh đuổi chúng kịch liệt. Nghe tiếng ầm ầm. Rồi tiếng chí chí. Chuột bị khua ở các khe nhà, chạy ra hàng đàn. Những ánh đèn rọi theo. Các cửa ngõ đều khép chặt. Chí nguy. Song, chỉ một loáng, lũ chuột ranh đã tẩu thoát, một cách rất nhẹn. Không một con nào bị chết vì một ngọn roi, vì một cán dao. Chúng đã khoét cái ngách riêng, dù bít hết cửa, cũng có thể chuồn được.

Tôi luống cuống. Tôi luýnh quýnh. Những ngọn roi của người đập vun vút xuống xung quanh tôi. Tôi đã tưởng phen này thì chết oan. Trong lúc hỗn loạn, tôi nghe tiếng chí chí ở đâu khe cửa bên cạnh. Tôi nhảy phóc một cái.

Vút, một ngọn roi sắt trượt từ lưng tôi xuống. Tôi đau nhói. Nhưng tôi cũng thoát và ngã xoài ra ngoài cửa. Tôi bò dậy, chạy miết, quên cả hình như mình bị thương. Mãi đến khi tôi ngoái lại, mới biết đuôi mình bị ngọn roi giáng xuống xé rách một mẩu. Máu chảy loe loét. Tôi đau thì ít, mà lo lắng thì nhiều. Nhưng lũ chuột vô hạnh kia cứ rởn tôi hoài. Chúng coi sự đau đớn của ai khác là một trò đùa. Bởi chúng đùa với cái chết cũng đã quen. Chúng hô :
- Đặt tên cho anh này là thằng Chuột Cộc.
- Chí chí chí!
Tôi đấy, biệt hiệu mới của tôi là Chuột Cộc. Tôi mỉm cười. Tôi nghĩ có cái biệt hiệu như vậy, cũng hay hay. Nó gợi mãi cho ta một kỷ niệm. Ngay đêm hôm xảy ra cái tai nạn khiến cho tôi bị cộc đuôi, tôi chia tay với bọn chuột nghịch ngợm kia. Ở đấy có khi chết oan.

Tôi đi luẩn quẩn trong các cống ngầm của thành phố. Những ngõ cống của thành phố này dài thăm thẳm, sâu hun hút, không bao giờ cùng đường. Tôi chịu khó lội trong bùn lầy. Nhưng cũng do những nơi bùn lội bẩn thỉu đó mà tôi lùng được một vài thức ăn, những mẩu xương, mẩu bánh gậm cho đỡ đói lòng.

Một ngày kia, tôi tìm được một chỗ ở tốt. Nơi này là một xóm lao động. Mà xung quanh có những đầm nước và công rãnh lầy lội. Tôi đã biết sợ những căn nhà có cái vỏ sang trọng rồi. Bởi vậy, tôi lần đến những nơi nghèo, có đàn bà và có trẻ con ở. Ở những nơi này mới có những vại nước, có chạn thức ăn, có những hạt cơm quăng vãi.

Nơi tôi tìm đến, trước tôi tới, chỉ có vài mống chuột. Cuộc sống êm đềm thong dong. Các bạn tiếp đón tôi rất niềm nở. Tôi kết thân ngay. Một đống cơm nguội thay cho cái lễ gặp mặt. Mấy anh em ăn uống hể hả.

Cuộc đời tôi, đến quãng này, cũng tạm là êm đềm.

VI

Không những êm đềm, tôi lại còn được nên danh giá nữa. Xóm nhà lá ấy, chỉ có đúng năm mông chuột. Cả năm mông đều hiền lành, xưa nay không biết sinh sự với ai bao giờ. Tôi có vẻ hoạt bát, lanh lợi và khỏe mạnh là khác. Bởi vậy, họ phục tôi lắm. Sau khi giao thiệp qua loa, họ đã biết tôi ít ra cũng là một tay hảo hớn chi đây. Họ có ý muốn tôn tôi làm trưởng thôn. Tôi phải bảo:
- Đừng làm thế. Tôi đây, đối sức ra ngoài thiên hạ chưa đáng kể mùi gì. Xin anh em, có lòng yêu cho được ở đây cùng quây quần giúp đỡ lẫn nhau.

Họ cũng nghe, nhưng không nghe hẳn. Họ quyết tôn tôi làm anh cả, nghĩa là tay đầu đàn. Tôi phải bằng lòng vậy. Nghĩa là từ đây, tôi là anh Hai - nói theo lối Sài Gòn. Còn các chú chuột kia, cứ thứ tự mà gọi, anh hai, rồi anh ba, cho tới út. Sáu anh em ở trong một khu nhà lá rộng, tha hồ đi kiếm mồi, chẳng ai dòm ngó tới. Người ta, những người chủ nhà, thì không làm hại đến chúng tôi. Bởi chúng tôi biết điều. Chúng tôi chẳng ăn uống vụng trộm gi đến quá miệng để người ta phải lên tiếng than phiền, kêu ca. Chúng tôi chỉ ăn cho vừa đủ no bụng thì thôi. Đất này, người hiếm, của nhiều, không ai phải đến nỗi khổ sở bởi miếng ăn ngụm uống.

Chúng tôi sống trong cảnh Bồng Lai. Ngày tháng êm đềm trôi đi. Ngày lại ngày.
Chao ôi! Có thể bình yên như thế mãi? Nhưng cuộc đời không chỉ dễ như ta kể chuyện, đặt thế nào nên thế ấy.
Tôi không nhớ hôm ấy là sau cái ngày tôi tới đây được bao nhiêu lâu. Chú Tư hớt hải báo tin :
- Có một đứa vào nhà.
- Có quen mặt không?
- Chưa trông thấy bao giờ. Nó đương lẩn vẩn ngoài bậu cửa, coi bộ ngơ ngác lắm, anh ra coi...
Tôi chạy ra. Có một gã chuột lạ thực. Gã chuột cũng trạc tuổi tôi và khổ người như tôi. Có điều cái mõm anh vuông bè bè, lông trên mình nhỏ, ngắn và lưa thưa. Cái đuôi cũng hơi ngắn. Tôi cất tiếng hỏi :
- Bác kia, đi đâu?
- Tôi đi chơi lạc vào đây.
Rồi gã cúi hai chân trước, vuốt râu chào mà quay ra. Chúng tôi cũng trịnh trọng đáp lễ và khen với nhau rằng con người ấy lịch sự, nho nhã.
Mươi hôm sau, tôi đương nhằn mấy hạt thóc ở đằng sau nhà, bỗng chú ba và chú tư, hốt hoảng chạy vào.
- Chí nguy! Chí nguy!
- Có việc gì đó?
- Anh ơi! Đương đánh nhau to ở ngoài kia!
- Mấy đứa?
- Hai.
- Đừng hốt hoảng!
- Nhưng chúng nó khỏe lắm!

Tôi lật đật ra. Đến nơi, thì hai con chuột lạ đã bị bại trận mà chạy xa rồi. Ba anh chuột nhà đánh hăng quá, mồ hôi toát đầm đìa. Câu chuyện đầu đuôi thế này:
Hai nhách chuột lạ lò dò vào trong nhà. Hai con chuột này cũng hình dáng như hai con chuột bữa nọ, mõm vuông và lông thưa, đuôi ngắn. Chúng chỉ hình dáng nho nhã mà rất bướng. Hỏi đi đâu? Chúng đáp: đi chơi. Lại hỏi: Đi chơi sao dám dò dẫm vào tận đây? Chúng gân cổ lên, đáp rằng chỗ nào cũng là đất của trời sinh ra, đâu cũng đi được. Chúng đáp xằng như vậy có khác gì chẹn gạch vào họng? Có mà chúng tôi đả liền. Hai thằng kẻ cướp, không thể địch lại với ba anh em chúng tôi.

Quả nhiên rồi bọn chuột kéo đến đông thực. Không phải hai tên thua, mà vô số chuột của cánh chúng nó rầm rộ đến. Con nào cũng như con nào, mõm vuông và đuôi ngắn. Chúng xô vào trong cống, làm nhặng lên. Cả thẩy có độ hơn một chục con. Có một con đầu đàn, lớn tiếng gọi chúng tôi. Chúng tôi ra, tôi đi đầu. Con chuột đầu đàn gật gù định nói, tôi đã nhận ra tên chuột mõm vuông vờ lạc đường hôm đầu tiên. Tôi lên tiếng trước:
- Chúng bay vô cớ đến đất của anh em ta, lại còn sinh sự đánh nhau, thiệt là to gan. Có muốn sống thì bước ngay.
- Chúng ta đến đây không có chủ ý đánh nhau đánh nhiếc gì hết. Chỗ này rộng rãi quá, mát mẻ quá. Anh em hãy cho chúng tớ đến ở chung.
Tôi quát :
- Những quân năm cha ba mẹ kia, cút ngay đi, không có thì tan xương bây giờ. Nhà ta ở không phải là cái lều hoang.
Chúng đáp rất vênh :
- Đã đến thì không đi.
Chúng tôi kêu :
- Cút đi! Cút đi!

Biết không thể điều đình được, nhưng bọn kia cũng không chịu lùi bước. Chẳng những thế, chúng lại còn hò nhau xông vào đánh. Chúng tôi quần chúng nó một trận mê tơi. Tuy ít, nhưng cánh tôi lợi thế hơn. Đường vào trong nhà, có mỗi một cái ống nhỏ năm anh em tôi chắn ngay đó. Rút cục, chỉ bùn rãnh bắn tứ tung, tất cả lấm như vùi.

Song quả chúng là những tay can trường. Chúng tôi nhờ cái cửa cống hẹp, chỉ thò nửa mõm ra, giơ hai chân trước lên, đã đủ chơi với bọn hung hăng. Chúng tôi đâm ra khinh chiến. Nhưng phàm cái gì cứ coi thường, hay bị quật lại đáo để. Chúng tôi gặp đúng như vậy. Trong bọn kia, có đứa ranh mánh, luồn theo mép cống vào tìm được khe hở ở một chỗ nối hai khúc cống. Chúng đã đánh tập hậu bất ngờ.

Chúng tôi thua trận, bị mất đường ra cái cống. Bọn ăn cướp, đã có chỗ tạm ở. Nhưng chỉ ở trong cống. Khi tới bữa nấu ăn, người ta đổ nước xuống cống, chúng nó ướt nhẵn từ đầu đến chấm đuôi. Ấy là, cũng chưa kể, nếu trời đổ mưa, nước tràn cống, nếu không ngoi ra, chắc phải chết đuối cả lũ. Chúng tôi cầu trời mưa. Chúng tôi cầu trời mưa to. Nhưng nắng chang chang, búng trời cũng không rơi được một giọt nước xuống.

VII

Cố nhiên, trời không thể mưa theo ý muốn của chúng tôi, dù rằng độ ấy đương mùa mưa. Một buổi chiều, tôi đương gặm mấy hạt ngô, chợt nghe tiếng lục cục đầu công, lố nhố mấy bóng đen. Chúng nó. Nhưng chúng không xông tới như mọi khi. Chúng đứng nấp sau những tảng gạch, nói chõ vào :
- Ra đây nói chuyện phải trái.
- Cho chúng tao vào đấy.
Tôi đáp :
- Bay cũng khôn đấy. Ta đã biết tại sao bay kéo vào đây. Ta biết rồi. Mấy bữa nay trời u ám. Ngày mai, ngày kia, thế nào cũng có mưa lớn. Mưa lớn chúng bay sẽ trôi ra sông, chết mất xác hết.
Tôi đã nói một câu trúng tim họ. Không dừng được, một tên nói :
- Không phải vì trời sắp mưa.
Tôi gạt phắt :
- Vậy thì lại đánh nhau.
Sợi dây căng đến độ đứt. Chúng tôi xô ra.

Cuộc chiến lần này thật dử dội. Bởi một bên thì cố thủ. Một bên thì liều đánh.
Cuộc chiến càng tăng độ nóng. Tôi đánh dụi xuống được một tên. Bị thương, nó không leo lên được nữa, cứ nằm dưới cống kêu choe chóe.

Chẳng may cho anh em tôi. Chú Năm, chú Sáu lớ quớ bị ngã. Chú út thì chết, chú Năm phải nhuôi người ra, giả cách hết thở, mới thoát chết. Chúng tôi, vừa đánh vừa lùi, lùi mãi vào đến cửa buồng, chúng tôi giữ thế thủ trong khe cửa. Nhưng chúng cũng không tiến thêm. Bởi, vào được trong nhà là thắng trận rồi, huống hồ chúng lại đã dồn chúng tôi vào buồng. Chúng tôi ôm nhau, khóc chú Út đã tử trận, xác nằm phơi ngoài đầu cống.

Tôi nói :
- Đứng khóc thế này, nước mắt không đánh chết kẻ địch được.
Tôi đã nghĩ được một kế. Tôi đi một lát. Thưa cùng bạn đọc yêu quý, bạn thử đoan toi đi đâu? Đến lúc tôi trở về, bốn em reo đón. Tôi hô lớn :
- Ta vào cả đây.
Tức thì, lũ lượt kéo vào một đàn chuột. Ai cũng đã nhận ra đấy là các bạn láng giềng bên phía tây.
Anh em hăng hái quá, toan xô cả ra đánh nhau ngay. Tôi phải cản lại. Tôi nói :
- Chẳng nên ra bây giờ. Đợi khuya một chút, chúng ta đánh bất ngờ, chắc được.
Chúng tôi nán đợi tới nửa đêm mới đổ ra. Tôi định bắt sống vài đứa. Nhưng quả là những đứa lọc lõi trận mạc. Chúng tôi vừa ra, đã nghe tiếng quát :
- Có động! Có động!
Cuộc quần thảo lần này ở giữa nhà, dưới gậm giường, không núp ẩn chi hết. Choảng nhau bằng tất cả sức khỏe, chẳng nhờ khe vách hố tường được. Giữa đêm, trong nhà yên tĩnh quá. Mọi người đã ngủ yên. Cái đồng hồ treo trên tường vẫn còn thức. Nó đếm tích tắc tích tắc như cầm nhịp cho cuộc chiến của chúng tôi. Nghe như hồi trống thúc quân, càng hăng hái. Bên địch đã bị ngả mấy mạng. Chúng tôi càng hò hét tợn.

Nhưng sự yên tĩnh đã làm hại chúng tôi. Vì yên tĩnh quá, và chúng tôi hò hét loạn xạ người ta thức giấc cả. Đánh nhau loạn xạ ở dưới đầu người ta, làm gì chẳng thức giấc. Một người đàn ông mở mắt ra, lắng nghe. Đầu tiên, tưởng kẻ trộm khoét ngạch. Nhưng sau, gã tặc lưỡi :
- À, chuột chạy.
Chuột chạy lục cục ngay dưới gậm giường, gã không ngủ lại được. Gã trở dậy, cầm cái gậy và bật đèn điện. Ánh sáng vừa lóe, cả đôi bên trận mạc bỏ chạy tan tác. Cho đến sáng, không dám ra tái chiến nữa.
Ở trong gậm phản, nhiều đêm sau còn xảy ra nhiều cuộc chiến kịch liệt nữa, ầm ĩ, ỏm tỏi cả lên. Nhưng đều bất phân thắng bại. Bởi vì, lần nào cũng thế, đương đả nhau hăng hái thì y như rằng có người trở dậy và người ta bật đèn, cầm cái gậy. Chỉ một đầu gậy cũng đủ đập vỡ cả mặt trận đương hung hăng.
Một ngày kia, ở trong buồng văng vẳng vang lên một tiếng lạ lắm.
- Meo... Meo... Meo...
Nhà này mới đem về một lão mèo, một lão mèo mướp. Lão ta dạo khắp quanh nhà, hai mắt sáng như hai hòn bi ve.
- Meo... Meo... Meo...
Chúng tôi chạy rối rít, cuống cuồng. Trong lúc hỗn loạn, chúng tôi quáng quàng xô lẫn cả vào nhau. Chúng tôi chạy về phía cuối phố. Văng vẳng sau lưng vẫn vang dội tiếng "meo meo" đuổi theo. Chúng tôi cắm cổ chạy bán sống bán chết. Nhưng, đàn chuột mõm vuông kia đã mau chân, đã chạy trốn lão mèo từ lúc nào. Khi chúng tôi tới căn nhà trú ẩn cuối phố, thì chúng đã vào đó từ bao giờ. Chúng đẩy bọn tôi ra. Chúng tôi không thể vào được, đành ra ngoài bụi cây trú.

VIII

Đêm ấy, ngoài bãi cỏ, bụi cây, chân một bức tường đổ, dọc theo một cái rãnh ăn theo một căn nhà, có cuộc họp to của một phố chuột. Đây là cuộc họp can hệ sống còn, đàn chuột vô lại nọ chiếm nhà đã gây nên, đã khiến cả phố chuột tức giận. Huống hồ lại vì chúng gây chuyện khiến nhà người ta rước về một lão mèo kếch xù.
Tất cả nhường tôi ngồi làm chủ tọa. Tôi từ chối, nhưng một anh nói:
- Chuột Cộc phải ngồi lên. Bởi vì sự xung đột xảy ra ở nhà anh trước. Anh biết rõ hơn ai hết đầu đuôi câu chuyện.
- Hàng phố ta, bao nhiêu năm nay, sống trong cảnh thái bình, không hề xảy ra một cuộc cãi lộn nhỏ nào. Bỗng nhiên, có một lũ ở đâu đến, gây rối ren. Chúng ta phải ghép chặt hàng ngũ, đi bắt sống chúng nó về đây hỏi tội thì mới mong tìm lại được sự thái bình ngày xưa.
Cả mấy đàn chuột kéo ngay vào khu nhà, giữa đêm tối mù mịt. Chúng tôi lặng lẽ đi sát mặt đất, lổm ngổm như những củ khoai biết bò. Đã trông thấy lấp ló mấy kẻ địch chạy thậm thọt phía bên trong. Thế là cuộc vây đánh bắt đầu.
Cuộc chiến không có gì khó khăn. Bởi chúng tôi đông. Cuộc thắng nghiêng ngay về chúng tôi. Chúng chết luôn mấy mạng, hoảng quá, còn lại bao nhiêu, ba chân bốn cẳng chạy. Chúng tôi không đuổi theo, và cũng không chiếm cứ khu đất của chúng. Binh tướng rút lui, đợi bận sau lại đánh nữa. Quyết đánh bao giờ chết đến tên thủ chỏm mới thôi.

Một đêm, chúng tôi lại tới bao vây khu nhà. Nhưng lạ thay, chúng tôi vào tận giữa nhà, sục sạo mọi chỗ mà không thấy mõm mũi một tên nào. Mấy cái xác chuột chết nằm còng queo, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Chúng tôi còn đương ngạc nhiên, bỗng nghe tiếng chí chí ở ngoài rồi một gã chuột chạy tọt ngay vào. Chúng tôi hô lên: "Đây rồi! Nó đây rồi!".
Chúng tôi chưa kịp xông ra thì đã vang lên ba tiếng "Meo! Meo! Meo!" ghê gớm. Lão Mèo hiện ra. Cả đàn tan chạy.
Tôi đã biết cái cớ tại sao bữa đêm nọ lão Mèo đến đúng vào chỗ chúng tôi. Ra cũng cùng là một mưu của bọn mũi vuông đuôi ngắn. Chúng biết là bọn tôi kéo đến rất đông, một đứa đi báo lão Mèo. Chuột đi tìm mèo, thực là một sự lạ. Nó đã quên cả cái thù truyền kiếp, mèo với chuột, nó muối mặt giết anh em rồi. Nhưng nó cũng tính toán cẩn thận. Trông thấy Mèo, gã chạy miết. Lão Mèo lập tức đuổi theo. Nó chạy về chỗ chúng tôi vừa kéo đến. Thế thì khác nào nó dẫn lão Mèo đến làm thịt chúng tôi.
Trong khi ấy, mùi thối chuột chết càng ghê gớm. Thế này thì bệnh dịch hạch nguy hiểm phát sinh đến nơi.
Đùng một cái, quả nhiên như thế. Và lão Mèo là nạn nhân đầu tiên. Lão Mèo ốm rên hừ hừ rồi lăn quay ra chết.
Tôi bàn với anh em :
- Phải đi gọi mấy ông chuột Cống tới, để ông vác cho mấy cái xác chết trận kia đi, không thì bệnh cả nút đây.
Anh em bảo tôi đi tìm chuột Cống ở cách đây mấy phố. Cống là một chi họ chuột to lớn khỏe nhất nhà chuột, chuột Cống chuyên nghề khuân vác.

Trời đất ơi! Không ngờ, tôi đi tìm chuột Cống lại thoát một đại họa.
Trong nhà, có một người chết, bệnh dịch hạch. Bao nhiêu đầu cống, ngách tường suốt một dãy phố đều bị bịt lại hết. Các cửa ngõ, dán giấy kín mít. Nghĩa là chuột ở phố, không còn lối nào mà thoát ra được. Bấy giờ người ta mới bơm vào những làn khói vôi tẩy uế. Khói bay đến đâu, chuột ngửi phải, hắt hơi một cái, là lăn quay ra. Người ta tẩy uế các phố, bỏ phố hoang trong hơi vôi độc đúng một tháng.

Bao nhiêu chuột chết ráo. Có mỗi tôi thoát thân.
Sự thảm khốc này, gây ra bởi bọn chuột khốn nạn. Chúng tôi đã sống êm đềm ở phố này bao nhiêu năm nay mà.

Chiều hôm đó, đứng trên một căn gác, vọng về phía dãy phố bị hun khói độc, tôi khóc :
- Thù này không đội trời chung. Cộc tôi xin khắc cốt ghi tâm. Những quân mõm vuông đuôi ngắn kia là kẻ thù số một của nhà chuột.

Tô Hoài


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét