"Có ba truyện thơ được chú ý. Trội hơn cả là
nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi. Anh đã thật sự thành công trong truyện thơ “Trạng
Diều”. Đó là một ông trạng rất đặc biệt của Việt Nam: Nguyễn Hiền đỗ trạng
nguyên năm 13 tuổi. Trong cả truyện thơ, tác giả luôn luôn mạch lạc suôn sẻ,
chân thực và súc tích. Có những đoạn thơ thật xúc động như được chắt ra từ gan
ruột của người viết" (Nhà
xuất bản Kim Đồng, Cuộc vận động sáng tác văn học cho thiếu nhi 2001 - 2002)
1
Một
đôi vợ chồng nghèo
Dương
A là quê mẹ [1]
Ngày
cuốc mướn cày thuê
Đêm
chui túp lều rạ
Vợ
chồng tuy nghèo khổ
Nhưng
ăn ở biết điều
Nên
làng trên chạ [2] dưới
Bà con
đều thương yêu.
Mùa
về, nhà biếu khoai
Nhà
cho ngô, cho lạc
Khi
trái gió, trở trời
Nắm lá
vườn làm thuốc.
Một
đêm kia, người vợ
Mơ
thấy buổi làm đồng
Gió hè
mát rười rượi
Trời
xanh ngắt tầng không.
Có một
con diều sáo
Loáng
bảy sắc cầu vồng
Tỏa
làn hương dịu nhẹ
Hạ
xuống một tiên đồng.
Tóc trái
đào ngộ nghĩnh
Đôi
môi đỏ như son
Tiếng
ngọt như mật rót:
– Mẹ
ơi, mẹ đón con!
Tỉnh
dậy, kể cho chồng
Nghe
giấc mơ tuyệt đẹp
Chồng
ôm vợ vào lòng
Thấy
tràn trề hạnh phúc.
Cuối
năm, túp lều rạ
Có
tiếng trẻ oa oa
Đặt
tên con là Hiếm
Thêm
cu Hiếm: vui nhà!
Vợ
chồng đi làm mướn
Cu
Hiếm đã lên ba
Khi mẹ
cha lội ruộng
Con
chập chững đầu bờ
Xá mạ
rồi ruộng khoai
Bước
chân non lũn cũn
Miệng
tập nói “ai…ai”
Mắt
nhìn chim bay lượn
Tiếng
sáo diều vi vu
Như ru
hồn con trẻ
Cặp
răng sữa nhú cười
Khi
chợt nhìn thấy mẹ.
2
Làng
đang sống thanh bình
Bỗng
đùng đùng giặc giã
Bọn
chúa đất đánh nhau [3]
Xua
quân đi cướp phá
Chồng
bị giặc lôi đi
Vợ bế
con chạy trốn
Khi
nấp cạnh bờ ao
Khi
nép người bờ ruộng.
Mẹ
thầm thì dỗ con:
Con
ơi, con đừng khóc
Ba bề
bốn bên giặc
Truy
đuổi mẹ con mình!
Chừng
như cũng hiểu ra
Hiếm
nằm im như thóc
Kiến
đốt cũng không khóc
Nốt
hồng tấy thịt da…
Bão
bùng rồi cũng qua
Ai lại
về nhà nấy
Cha bị
giặc giết rồi
Túp
lều giặc đốt cháy.
Thấy
mẹ con khổ sở
Nhà
chùa rủ lòng thương
Chỉ
cho một khoảnh đất
Dựng
một túp cuối vườn.
Xóm
làng người cho tre
Người
cho vài nắm lạt
Người
cho chiếc chõng nằm
Người
cho đôi nồi đất.
Mẹ tần
tảo nuôi con
Ngày
đôi lần đỏ lửa
Rau
má, củ khoai môn
Sắn,
ngô chia đủ bữa.
Lên
sáu tuổi, cu Hiếm
Phải
đi ở chăn trâu
Cho
một ông phú hộ
Nhà ở
bên xóm Cầu.
Phú
hộ, hai người con
Tuổi
lên năm, lên bảy
Nuôi
thầy đồ trong nhà
Để sớm
chiều thầy dạy.
Nghe
tiếng thầy ê a:
“Nhân
chi sơ bản thiện”
Hiếm
nghe lỏm thuộc lòng
Học
theo cách truyền miệng
Muốn
nhanh thuộc mặt chữ
Gạch
non viết xuống sân
Mài
son cho cậu chủ
Để học
mót dần dần.
Lùa
đôi trâu ra đồng
Lúa
thơm vừa mới gặt
Cỏ tha
hồ trâu ăn
Còn
Hiếm thì ngồi học.
Rồi
bài nào, bài nào
Hiếm
nhập tâm làu làu
Một
mình giữa trời đất
Cũng:
“Quan quan thư cưu”
Hiếm
tập viết ngoài đồng
Lấy
cành cây làm bút
Mài
hòn son làm mực
Giấy
là lá chuối tươi
Hiềm
một nỗi đến đêm
Không
đèn sao học được?
Hôm
phú ông giết lợn
Hiếm
xin cậu chủ cho
(Sướng
rơn!) chiếc bong bóng
Đập
mỏng rồi phơi khô.
Phùng
má thổi cho căng
Đêm đi
bắt đom đóm
Thả
vào, ánh sáng xanh
Chiếu
ra, nhìn rõ lắm.
Mẹ
thấy con ham học
Cũng
hởi dạ, hởi lòng
Đi mò
cua bắt ốc
Mua
giấy bút cho con.
Hiếm
học rất sáng dạ
Đúng
“học một biết mười”
Ông
thầy đồ hỉ hả
Khen:
như là con trời!
Đánh
tiếng sang nhà chùa
Ông
nhận cu Hiếm học
Giấy,
bút. mực ông mua
Miễn
cho tiền lễ lạt
3
Ngày
nhập trường mẹ sửa
Một cỗ
xôi con gà
Sai
con trai đội đến
Mặt
Hiếm hồng như hoa
Từ hôm
ấy, lều tranh
Như
tỏa bừng ánh sáng
Thầy
đồ thêm học trò
Tiếng
giảng bài sang sảng
Hai
cậu chủ tối dạ
Bị
thầy đồ mắng luôn
Hiếm
bày cho từng chữ
Lúc
chơi rủ nhau ôn.
Một
hôm thầy bảo mẹ:
– Cháu
tư chất khác người
Mai
sau chắc thành đạt
Nên
hiền sĩ giúp đời
Đổi
tên Hiếm thành Hiền
Nguyễn
Hiền: tên thầy đặt
Mẹ
thắp một tuần nhang
Khấn
xin cùng trời đất.
Hai
năm học trôi qua
Nguyễn
Hiền lên tám tuổi
Thầy
bảo: Hết chữ rồi
Thầy
không dạy được nữa
May
sao ở làng bên
Có một
thầy mở lớp
Môn
sinh chín, mười người
Cùng
miệt mài đèn sách.
Khi
học về Nam sử
Khi
bình một áng thơ
Nguyễn
Hiền nói lưu loát
Như
thuộc tự bao giờ.
Giang
sơn Đại Việt ta
Nghìn
năm lầy máu chảy
Cũng
bao phen hào hùng
Đánh
quân thù tàn bại
Kìa
Trưng Trắc, Trưng Nhị
Thuốc
súng xạm bành voi
Thù
nhà và nợ nước
Căm
giận lòng sục sôi.
Sang
sảng câu thơ thần
“Nước
Nam vua Nam ở”
Coi
chừng, quân giặc dữ
Bay sẽ
cháy thành tro!
Ôi!
Nước ta, dân ta
Bao
nhiêu là thương mến
Như
quê mình Dương A
Máu,
mồ hôi hòa quyện.
Như mẹ
ta, cha ta
Bao
nắng mưa khó nhọc
Bát
cháo khoai nhường con
Con ấm
lòng ngồi học.
Ở nhà
bài vở xong
Quét
lá rồi giặt áo
Khi
cùng mẹ ra đồng
Mang
theo con diều sáo.
Cuộn
dây gai quấn tay
Nối
liền Trời với Đất
Đất là
nơi xuất phát
Trời
nâng đôi cánh bay.
Chiều
chiều làng Dương A
Vi vu
nghe sáo thổi
Tiếng
sáo diều bâng khuâng
Làm
vơi đi bao nỗi
Nhọc
nhằn và khốn khó
Dối
lừa và bất công…
Phút
chốc như tan biến
Giữa
trời xanh khôn cùng
4
Năm
trước, nhất thi Hương
Năm
sau, nhất thi Hội
Bước
vào kỳ thi Đình
Nguyễn
Hiền mười ba tuổi.
Cả
làng mừng, họp lại
Ai có
tiền cho tiền
Ai có
gạo cho gạo
Tiễn
đưa cậu về Kinh.
Hiền
lên đường đi thi
Cả
làng quê khấp khởi
Từ nay
Dương A mình
Cả
nước đều biết tới.
Thăng
Long vào mùa hội
Cờ,
phướn bay rợp trời
Đường
dập dìu xe ngựa
Sĩ tử
từ trăm nơi
Cánh
nho sĩ Hải Đông
Hài
thêu và áo đoạn
Lều
chõng cứ rộn ràng
Phố
phường vui bàn tán
Cánh
Nhật Nam tiếng nặng
Khăn
xếp và áo lương
Đầu
cắm lông chim trĩ
Tay
nải khoác chéo lưng.
Cánh ở
trấn Đà Giang
Mùi
rừng thơm trên áo
Nhìn
phố xá lạ lùng
Quen
ăn gió nói bão
Nguyễn
Hiền mải mê xem
Thấy
phố phường chật quá
Gặp
con ngựa cũng nhìn
Thấy
áo bông: hỏi giá…
Rồi
mặc ai bàn tán
Mặc
cho ai lo âu
Cậu ta
cứ bình thản
Ra cửa
Đông thả diều
Thi
suốt ba ngày liền
Bút
đằm trên giấy bản
Chiếc
chõng cũng rung lên
Theo
nhịp tìm xúc cảm.
Văn
luận về thời thế
Về
nghĩa sĩ, anh hùng
Trung
với dân với nước
Yêu
nước càng thương dân.
Văn
luận về núi sông
Về
giang sơn cẩm tú
Sông
trên bến dưới thuyền
Núi
nghìn cây hội tụ
Đồng
ruộng làng Dương A
Trải
xanh dài trước mặt
Chiếc
diều sáo vi vu
Niềm
thương quê nghẹn thắt.
Lời
thầy giảng bên tai
Giọt
mồ hôi trán mẹ
Tình
thương của dân làng
Nghẹn
ngào, Hiền rơi lệ
Hiền
đỗ đầu vòng một
Ba
bài, ba điểm “ưu”
Còn
một bài thi rốt.
Nghìn
người còn trăm người
Đề lần
này vua ra
Viết
ngay trên thềm điện
Các
bài thi chấm xong
Mắt
rồng đều ngó đến.
“Áp tử
từ kê mẫu”
Bài
phú: một khắc giờ
Đã có
mười sĩ tử
Chắp
tay lạy, lui ra.
Nguyễn
Hiền nhíu lông mày
Nghĩ
về đề thi khó
Đề thi
của nhà vua
Gửi
nỗi niềm chi đó?
Vịt
con bỏ gà mẹ
Nhảy
xuống hồ bơi lội
Có
phải trong lòng vua
Đang
có điều bối rối?
Vua mồ
côi cha mẹ
Được
chú là Thái sư
Nuôi
dạy từ tấm bé
Gây
dựng nên bây giờ.
Người
muốn qua sĩ tử
Nói hộ
cho chính mình
Một
tấc lòng trong suốt
Vằng
vặc dưới trăng thanh
Nguyễn
Hiền vung bút lên
Văn
thấm từ gan ruột
Đậm đà
bao ý tình
Bao
nỗi niềm chân thật.
Mẹ gà
ấp vịt nở
Vịt
con theo mẹ gà
Đi
kiếm mồi trên bộ
Ắt là
vịt con thua
Nhưng
khi xuống hồ bơi
Vịt
thả sức ngụp lặn
Tôm
tép tha hồ xơi
Vịt
tìm ra đất sống.
Vịt bỏ
gà cũng phải
Nhưng
phàm là con người
Công
sinh thành – dưỡng dục
Đều
phải quí cả hai.
Bài
vua chấm điểm ưu
Đứng
đầu kỳ Tiến sĩ
– Nước
có Trạng Nguyên rồi!
Tiếng
hò reo vang dậy.
5
Trống
canh năm vừa điểm
Đã náo
nức hoàng thành
Then
Long Môn vừa mở
Dân
kinh kỳ vây quanh.
Ai
cũng háo hức chờ
Trống chiêng
khua náo động
– Ai
sẽ trúng Trạng nguyên
Ai
Thám hoa, Bảng nhỡn?
Người
đoán nho sinh này
Người
cho là vị khác
Lòng
dân ngóng nhân tài
Như
mong mưa thấm đất.
Khi
nhà vua ngự giá
Không
khí càng uy nghi
Có
hàng trăm nho sĩ
Nín
thở hồi hộp nghe.
Kiệu
quan chánh chủ khảo
Đã hạ
trước điện rồng
Một
lính hầu vác quạt
Người
khác đỡ loa đồng:
Quan
dặng hắng hai lần
Giọng
truyền nghe oai vệ:
– Bớ
lê dân, sĩ tử
Nghe
lời bố cáo đây:
– Đứng
đầu giáp Tiến sĩ
Là nho
sinh Nguyễn Hiền
Dương
A là quê mẹ
Thuộc
đất phủ Thiên Trường.
Tiếng
loa đồng dõng dạc:
– Mời
Trạng nguyên Nguyễn Hiền!
Một
tiếng “dạ” rành rọt
Rồi
cậu bé bước lên.
Tiếng
“ồ”, ”à” kinh ngạc
Sửng
sốt cả kinh thành:
Mười
ba tuổi đỗ Trạng
Ôi!
Non nước anh linh!
Nguyễn
Hiền đến trước vua
Quỳ,
tung hô vạn tuế
Vua
phán đến bên Người
Hỏi
mọi điều cặn kẽ
Ban
thưởng cho người mẹ
Ban
quà tặng cho thầy
Sân
rồng mở đại yến
Tiếng
đàn ca như say.
Vua
sai quan thái giám
Dẫn
Trạng thăm kinh thành
Rồi
cho về quê nội
Lại
đèn sách học hành
Bao
giờ mười tám tuổi
Vua sẽ
phán lai kinh
Để ban
cho phẩm trật
Nhận
mũ áo triều đình
Tin
bay về Dương A
Cả
chục làng náo nức
Thôn
Đông dựng cổng chào
Tiếng
trống chiêng dậy đất
Thôn
Thượng múa sư tử
Thôn
Hạ đánh cờ người
Thôn
Trung lo đám rước
Mặt
người hồng niềm vui
Các cụ
mặc áo tế
Râu
tóc như tiên ông
Nước
phúc to mới thấy
Làng
có Trạng thần đồng
Gái
trai váy, áo đẹp
Má
hồng, mắt ngời xanh
Suốt
đêm vui múa hát
Trống
phách rộn sân đình
Trẻ
con thì rồng rắn
Chân
đăm đá chân chiêu
Cùng
hô từng nhịp một:
–
Trạng nguyên – Trạng thả diều
Kiệu
Trạng rước đến làng
Nguyễn
Hiền nhảy xuống đất:
– Ôi!
Mẹ ta kia rồi!
– Kìa
thầy ta đang khóc!
– Thưa
bà con xóm mạc
Cháu
đã trở về đây!
Với
tình làng sâu nặng
Công
ơn xóm cao dày!.
Cảm ơn
bạn cùng lứa
Cùng
cắt cỏ, chăn trâu
Cùng
mót khoai, mót lúa
No đói
cùng có nhau!
Làng
đã bày hương án
Thắp
hương rồi đốt trầm
Chiếu
vua ban phong Trạng
Nức
lòng mọi thần dân
6
Cuối
năm sứ Tống sang
Nhà
vua sai mở tiệc
Sứ
”Thiên triều” nghênh ngang
Đố thơ
vua Đại Việt:
“Lưỡng
nhật bình đầu nhật
Tứ sơn
điên đảo sơn
Lưỡng
vương tranh nhất quốc
Tứ
khẩu tung hoành gian!”
Ý bài
thơ nói gì
Vua
quan đều chưa rõ
Vua
vẫn bình thản mời
– Rượu
ngon cứ uống đã!
Sứ
thần về quán dịch
Vua
tôi mới họp bàn
Một
ông quan hiến kế:
– Xin
cho mời Nguyễn Hiền!
Mặt
rồng hơi đăm chiêu:
–
Người ấy còn non tuổi
Lòng
dạ còn sáng trong
Văn
chương thì lắm lối!
Quan
hành khiển quỳ tâu:
– Xin
lượng trời rộng xét
Để
người phải lo âu
Chúng
thần đáng tội chết!
Trạng
Hiền tuy ít tuổi
Đỗ đầu
ba kỳ thi
Văn
lúc trào như thác
Lúc
gió đàn lâm ly.
– Quan
lính đến Thiên Trường
Rồi đi
theo lộ nhỏ
Đến
gốc đa bên dường
Nhìn
thấy một chú bé
Mặt
mũi khá khôi ngô
Nhưng
áo quần rách vá
Đang
nằm ngửa nhìn trời
Sáo vi
vu trong gió
Một
tên lính quát hỏi:
– Làng
Dương A ở đâu?
Chú bé
vẫn phanh bụng
Không
trả lời nửa câu
Thái
giám tức, nạt nộ:
–
Thằng bé kia nói mau!
Thấy
quan quân rầm rộ
Không
biết sợ hay sao?
– Hãy
lôi nó lại đây!
Chú bé
đến trước mặt
Vẫn
thản nhiên như không.
– Được
nắng, tôi phơi sách!
– A
thằng này hỗn xược
Có
thấy sách gì đâu?
Lại
thêm tội nói dối
Hai
lần đáng mất đầu!
Chú bé
chỉ vào bụng:
– Sách
đây này, đây này!
Nói
xong thì bỏ chạy
–
Dương A sau hàng cây!
Viên
tiểu tư ở xã
Được
tin chạy cuống cuồng
Bày
hương án tiếp chỉ
– Vua
truyền gọi Trạng Hiền!
Thấy
quan Trạng bước ra
Mặt
thái giám tái mét
– Lúc
nãy mà đánh đòn
Thì
mình không thoát chết!
Thái
giám truyền lệnh vua
Đưa
bài thơ sứ Tống
Trạng
chỉ lướt mắt qua
Miệng
còn cười tủm tỉm.
Trạng
vào quỳ lạy mẹ
Rồi
lên kiệu vua ban
Về
Thiên Trường, ngựa trạm
Thay
nhau phi suốt đêm.
Khi
trạng về đến Kinh
Nhà
vua ân cần hỏi:
– Muôn
tâu: bài thơ kia
Thần
đã có cách giải!
Nhà
vua truyền mở tiệc
Tiễn
sứ Tống hồi hương
Ngồi ở
hàng quan nhỏ
Có cả
ông Trạng Hiền.
Sứ
Tống mặt vênh vang
Nhắc
bài thơ hôm nọ:
– Chắc
triều đình nước Nam
Vua
tôi đều chịu cả?
Trần
Thái Tông cười nhạt:
–
Chuyện vặt ấy có gì!
Đứa
trẻ con cũng biết
Hỏi
triều đình làm chi?
Vua
phán gọi Nguyễn Hiền
Cậu bé
đi thong thả
Bưng
một đĩa bánh chưng
Đặt
trước mâm sứ giả.
Rồi cầm
một đôi đũa
Xắn
dọc lại xắn ngang
Thành
chữ điền là ruộng
Đủ
nhật, khẩu, sơn, vương.
Sứ
Tống mặt tái đi
Mồ hôi
rơi giọt …giọt
Mọi
người cười ầm lên
(Mặc
dù chưa hiểu hết)
Tiệc
tan, tiễn sứ thần
Ra
nghỉ ngoài quán dịch
Vua
mới hỏi Nguyễn Hiền:
– Làm
sao ngươi giải được?
Nguyễn
Hiền tâu cặn kẽ:
– Sứ
chiết tự đố ta
Hai
Nhật Hay Bốn Khẩu
Hai
Vương hay bốn sơn
Đặt
trong cái khung ấy
Cũng
đều là chữ điền
Mà
điền thì là ruộng
Cấy
nếp nấu bánh chưng!
Vua
quan cùng ồ lên:
– Phúc
to cho Đại Việt!
– Tên sứ
Tống phen này,
Nhục
không sao vuốt mặt.
Nghe
Trạng tâu rành rọt
Mặt
rồng sáng ngời lên
Truyền
thưởng nghìn nén bạc
Giữ
Trạng lại trong cung
Chắp
hai tay, Trạng vái
Tạ ơn
nhà vua ban
Nhưng
ở quê còn mẹ
Ai
ngày đêm chăm nom?
Vua
khen Trạng thảo hiền
Cho
đón bà vào phủ
Để mẹ
con bên nhau
Bõ
những ngày lam lũ.
Sau
này là quan giỏi
Lại là
quan thanh liêm
Sử Đại
Việt truyền mãi
Chuyện
quan Trạng Nguyễn Hiền.
Hà Nội 2001
[1] Huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường
(Nam Định)
[2] Tiếng cổ: như làng, xã
[3] Hai lãnh chúa Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét