Thứ Hai, 30 tháng 3, 2020

NHỮNG CÂU HỎI CỦA NƯỚC MẮT

Chỉ mang tính minh họa


Tôi đọc Thiên Nga Sô Zuôn trong Văn trẻ Bình Định (Nxb Văn hóa – Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2018), thấy ấn tượng hơn cả với bài thơ Khóc vợ Nguyễn Nhạc. Đặt bài thơ này vào hệ thống thơ ca về đề tài nhà Tây Sơn, tôi thấy nó có nét riêng, rất đáng ghi nhận.


Như đã biết, trong văn học Tây Sơn có tồn tại một bộ phận tác phẩm thể hiện chủ đề “ai điếu”, thường được biết đến qua những thi phẩm tiêu biểu sau: Thu phụng quốc tang, cảm thuật (Phan Huy Ích), Khâm vãng Đan Dương lăng, Tòng giả bái tảo Đan lăng cung kí (Ngô Thì Nhậm), đặc biệt là Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân). Các tác phẩm trên đều được viết vào thời điểm vua Quang Trung băng hà (1792), bày tỏ niềm tiếc thương và ca ngợi công đức to lớn của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Khía cạnh riêng tư, tức chuyện tình cảm vợ chồng, cũng là một nét son trong nhân cách Nguyễn Huệ - Quang Trung, được Lê Ngọc Hân kể lại tuy đớn đau mà đầy hạnh phúc:

“Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân
Theo xa thôi lại theo gần
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa”.

Bài thơ của Thiên Nga Sô Zuôn, như tên gọi, không hướng vào thể hiện hình tượng Nguyễn Huệ - Quang Trung mà đề cập tới một nhân vật khác, ít được người đời và sử sách biết đến. Nhân vật đó được Thiên Nga Sô Zuôn gọi là “Nàng”, là “Cô Hầu”, vốn là một cô gái Ba Na tên là Ya Dố, có “màu da nâu sạm”, đã kết duyên cùng Nguyễn Nhạc khi ông đến vùng rừng núi K’Bang buôn trầu và mưu tính chuyện khởi nghĩa. Cô đã giúp Nguyễn Nhạc kết thân với các tù trưởng, “trao cánh đồng cho voi gầm, ngựa hí” và tổ chức lao động sản xuất, tích lũy lương thực. Trong cảm nhận của Thiên Nga Sô Zuôn, đóng góp của Cô Hầu và rộng ra là cộng đồng Ba Na đối với phong trào Tây Sơn ở buổi đầu là rất to lớn. Thể hiện điều đó, Thiên Nga Sô Zuôn không dùng thứ ngôn ngữ khoa trương mà chọn hình ảnh “mầm xanh lớn dậy”, rất giản dị và đầy biểu cảm:

“Nhà Tây Sơn như mầm xanh lớn dậy
Thấm quyện xương máu lũ làng”

Thiên Nga Sô Zuôn là một phụ nữ Ba Na có năng lực văn chương thiên phú. Từ những trải nghiệm cá nhân, sự nhạy cảm của tâm hồn văn chương nên chị dễ dàng phát hiện ra chỗ “bi kịch” của Cô Hầu trong đời sống tình yêu và hôn nhân. Nghệ thuật đối lập đã giúp Thiên Nga Sô Zuôn thể hiện vấn đề một cách sáng rõ, đụng chạm được tâm can của người đọc:

“Trái tim dâng trọn người anh hùng Nguyễn Nhạc
Mặc đêm đông giá rét hay ấm nồng
Cam phận thứ, vun vén giang sơn chồng
Cánh đồng Cô Hầu mang tên từ đó chăng?
Nguyễn Nhạc ơi!
Ngài có nghe lẫn trong gió ngàn nước mắt nàng rơi
Phải chăng tình yêu chỉ đọng lại nơi hai tiếng “Cô Hầu” không rõ nghĩa?”.

Thơ vốn gợi, vì thế, Thiên Nga Sô Zuôn chỉ sử dụng vài ba chi tiết nhưng đã làm bật lên được cái vị thế, danh tiếng, đặc biệt là nỗi lòng người vợ Nguyễn Nhạc. Có thể nói, ba câu sau của đoạn là lời cật vấn đầy ám ảnh, lột tả được nỗi cô đơn đằng đẵng của Cô Hầu trong những tháng ngày rời xa núi rừng, theo chồng về xuôi. Rõ ràng, Cô Hầu là một số phận chứa đựng nhiều nghịch lí, đan cài bởi nhiều mặt đối lập. Tôi cho rằng, Thiên Nga Sô Zuôn đã đạt được một phát hiện tinh tế, làm bật lên được khía cạnh đáng thương, đáng đồng cảm của nhân vật Cô Hầu. Phát hiện này có thể xếp ngang hàng với câu thơ của Ngân Giang nữ sĩ về Trưng Nữ Vương trong bài thơ cùng tên, xuất bản năm 1939:

“Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi”
(Trưng Nữ Vương)

Có thể nói, cả thơ Ngân Giang nữ sĩ lẫn Thiên Nga Sô Zuôn đều ràn rụa nước mắt khi nói về những khoảnh khắc cô đơn của người phụ nữ. Họ vì nghĩa lớn mà hi sinh, và trong những lúc trở về với cuộc sống đời thường thì gần như chạm vào nỗi lẻ loi, đơn lạnh. Vắng sự thấu hiểu, sẻ chia, người phụ nữ dù giữa lầu son gác tía, kẻ hầu người hạ vẫn không thể nào có được hạnh phúc thực sự. Với riêng trường hợp Cô Hầu, tôi nghĩ Thiên Nga Sô Zuôn rất chuẩn xác khi dùng từ “cam” (cam phận thứ, vun vén giang sơn chồng) để nói về tính cách của người phụ nữ Ba Na trong ứng xử với người anh hùng Nguyễn Nhạc. Nó cho thấy Cô Hầu trước sau như nhất, trọn vẹn một tấm lòng hi sinh vì giang sơn nhà chồng.

Cảm hứng thơ Khóc vợ Nguyễn Nhạc hình thành trên cơ sở suy ngẫm, cảm thông về số phận người phụ nữ Ba Na Ya Dố - Cô Hầu. Nhưng tác giả Thiên Nga Sô Zuôn không tự giới hạn cảm xúc vào một số phận cụ thể mà chủ động mở rộng, phát triển ý thơ khi tạo ra sự kết nối giữa cá nhân với cộng đồng, giữa xưa và nay. Theo đó, hình ảnh cộng đồng Ba Na luôn thấp thoáng, ẩn hiện trong nhiều câu thơ, hoặc dưới dạng khẳng định hoặc nghi vấn:
- “Nhà Tây Sơn như mầm xanh lớn dậy
Thấm quyện xương máu lũ làng”;
- “Chao ôi!
Người Ba Na một thời oanh liệt còn sách nào ghi?”.

Trong thắng lợi của phong trào Tây Sơn, đóng góp của người Ba Na và các cộng đồng sinh sống nơi vùng Tây Sơn thượng đạo là rất to lớn. Lịch sử, dân tộc đã ghi nhận, tôn vinh nhưng hình như vẫn chưa tương xứng với những đóng góp đó. Thiên Nga Sô Zuôn hẳn đã tìm hiểu kĩ các pho sử xưa nay; và từ góc độ một hậu thế của cộng đồng Ba Na, chị đắng đót đưa ra câu hỏi về ứng xử với lịch sử, với quá khứ oanh liệt của dân tộc mình. Tôi nghĩ, đó là câu hỏi rất đáng trân trọng, rất đáng nghĩ suy nhằm xác lập một phương cách ứng xử công bằng, nhân văn hơn với cha ông, với những người đi trước đã có công tạo dựng nên giang sơn này cùng bao truyền thống tốt đẹp.

Khóc vợ Nguyễn Nhạc là tấm lòng đồng cảm và trách nhiệm của Thiên Nga Sô Zuôn với tiền nhân. Nữ tác giả trẻ Ba Na này đã đạt được một sáng tạo nghệ thuật đột xuất khi viết về Ya Dố - Cô Hầu. Bài thơ giàu chất suy tư, hình ảnh mới mẻ, bố cục có nhiều chỗ “thắt” (Nàng – Nàng – Và nàng ơi! – Chao ôi!) tựa như những tiếng nấc nghẹn, đong đầy nước mắt. Có thể nói, cái chất men làm nên sự xúc động của thơ Thiên Nga Sô Zuôn chính là nỗi đau khổ của con người, nhất là người phụ nữ, được tượng hình qua những giọt nước mắt. Cá nhân tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần Khóc vợ Nguyễn Nhạc, không khỏi ngạc nhiên khi một người trẻ như Thiên Nga Sô Zuôn lại có được những cảm nghĩ sâu xa về số phận con người, số phận dân tộc như vậy!

LÊ NHẬT KÝ


KHÓC VỢ NGUYỄN NHẠC
           - Thiên Nga Sô Zuôn -
Nàng
Gái Ba Na màu da nâu sạm
Sợi tơ duyên vương phải áo anh hùng
Trao cánh đồng cho voi gầm, ngựa hí
Nhà Tây Sơn như mầm xanh lớn dậy
Thấm quyện xương máu lũ làng
Nàng!
Trái tim dâng trọn người anh hùng Nguyễn Nhạc
Mặc đêm đông giá rét hay ấm nồng
Cam phận thứ, vun vén giang sơn chồng
Cánh đồng Cô Hầu mang tên từ đó chăng?
Nguyễn Nhạc ơi!
Ngài có nghe lẫn trong gió ngàn nước mắt nàng rơi
Phải chăng tình yêu chỉ đọng lại nơi hai tiếng “Cô Hầu” không rõ nghĩa?
Và nàng ơi!
Tôi khóc thầm những đêm buồn lặng lẽ
Triều Tây Sơn sách sử chẳng còn nhiều
Nỗi khổ dân mình gồng gánh bao nhiêu?
Không phải ai cũng biết!
Chao ôi!
Người Ba Na một thời oanh liệt còn sách nào ghi?
Nàng ơi!
Tay tôi nhỏ, yếu mềm chưa đủ sức
Không nâng nổi giấy mực thành viên gạch hồng
Xây lại hào hùng một thuở của cha ông!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét