Bà Tôn Nữ Thị Ninh:
Cái đẹp từ cái thiện
mà ra!
Bà Tôn Nữ Thị Ninh được biết đến nhiều nhất ở cương vị một nhà
ngoại giao với sự trí tuệ, mềm mỏng và cứng rắn khi cần thiết. Trở thành nhà
ngoại giao bắt đầu bằng công việc phiên dịch và từng phiên dịch cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp... Bà trải qua nhiều cương vị, từ một
giảng viên đại học tại Pháp đến đại sứ của Việt Nam tại Bỉ, Luxembourg, trưởng
phái đoàn đại diện Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu... và từng là Phó chủ
nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Mặc dù sống và làm việc nhiều năm tại nước ngoài, nhưng điều thú
vị là bà còn được nhìn nhận như một phụ nữ đẹp chuẩn mực, rất “Việt Nam”. Không
chỉ nỗ lực “Để đất nước Việt Nam của tôi sau những năm dài chiến tranh và khổ
đau, có thể hồi sinh và tìm cho mình một chỗ đứng hoàn toàn xứng đáng trong
cộng đồng quốc tế...” như lời bà nói trong cuốn sách Tư duy
và chia sẻ ấn hành gần đây, mà bà còn có những chia sẻ rất thú vị về
phụ nữ, cái đẹp, cái thiện.
“Đẹp” là tĩnh,“duyên” là động
* Thưa bà, trong suy nghĩ của bà,
thế nào là một người phụ nữ đẹp?
- Rất nhiều người đã nói về điều này, tựu thành những yếu tố căn
bản nhất, như: sắc, tài, tâm. Sự tương quan, cân bằng, tương tác giữa những yếu
tố này trong một người sẽ khác nhau. Dĩ nhiên, nếu cả 3 yếu tố đều tốt cả, ta
sẽ có một vẻ đẹp lý tưởng. Tuy nhiên, tôi muốn đề cập đến góc độ chung hơn. Với
tôi, phụ nữ đẹp không chỉ có “sắc” mà thôi. Như tôi đã nói trong cuốn sách mới
đây nhất của mình Tư duy và chia sẻ, phụ nữ đẹp không đơn
giản là sự cân đối về ngoại hình, về khuôn mặt, mà phụ nữ là phải có duyên.
Có những người đẹp về ngoại hình, nhưng lại không cuốn hút nếu chỉ
đẹp mà lại “tẻ”. Trong khi đó, lại có người tuy không xuất sắc về đường nét,
nhưng lại có sự sinh động của cái “duyên”. Mà “duyên” gắn với tâm hồn, tư duy,
lối sống, nhân sinh quan... Sắc đẹp là trời phú, nhưng duyên cũng phải tự
nhiên. Tuy nhiên, khó ở chỗ, dù phải tự nhiên thì mới duyên, nhưng muốn trau
dồi cái duyên lại đòi hỏi phải có ý thức về nó. Ở một độ tuổi nào đó, cái duyên
sẽ là vốn quý của bản thân sau nhiều trải nghiệm. Cái đẹp về ngoại hình là một
phạm trù tĩnh, cái duyên là một phạm trù động. Cái duyên sẽ làm vẻ đẹp đó sống
động hơn. Phụ nữ muốn đẹp hơn nữa thì phải có văn hóa. Và quan trọng, sự lương
thiện là nguồn gốc làm nên cái đẹp của con người nói chung, kể cả phụ nữ. Cái
đẹp từ cái thiện mà ra.
* Những tiêu chuẩn “giàu đức hy sinh, nhẫn nhịn,
dịu dàng” trong quan niệm về phụ nữ của Việt Nam, nếu đặt
trong hiện tại có còn đủ sức mạnh đại diện cho cái đẹp của
phụ nữ Việt Nam?
- Tôi thường nói ở các diễn đàn, phụ nữ nào mà không hy sinh? Kinh
nghiệm cho tôi thấy, sự hy sinh này không chỉ là đặc thù của phụ nữ Việt Nam
đâu. Tuy nhiên, vì Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh và những năm
tháng gian khổ, vì vậy sự hy sinh đó cũng đặc biệt hơn nhiều, được thử thách và
rèn luyện ở những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn nhiều. Khác ở chỗ đó. Tuy vậy, tôi
thấy nếu quá thường xuyên đề cao rằng “hy sinh” là đặc thù riêng của phụ nữ
Việt Nam, và phụ nữ Việt Nam đều phải thế thì nên cân nhắc. Không nên đặt thêm
cho phụ nữ những gánh nặng, những áp lực. Thêm nữa, sự hy sinh theo tôi là
“không có giới tính”. Chẳng lẽ chỉ có người phụ nữ phải hy sinh, còn người
chồng, người cha không phải hy sinh?
Tôi nghĩ không nên lạm dụng khái niệm này. Trong nhiều hoàn cảnh,
sự hy sinh quá đà dẫn đến sự nhu nhược, và có thể chuốc lấy nhiều hậu quả. Đúng
là phụ nữ Việt Nam nhiều đức tính tốt, và hoàn cảnh giúp họ tôi luyện nhiều,
nhưng đừng nên đặt những yếu tố đó lên hàng đầu. Mỗi thời sẽ đặt ra những yêu
cầu khác, đòi hỏi khác và phụ nữ cũng phải thay đổi theo.
* Bà được nhiều phụ nữ ngưỡng mộ và
xem là một hình mẫu để noi theo. Nhưng với riêng bà, có người
phụ nữ nào mà bà ngưỡng mộ không?
- Tôi tích cóp những cảm nhận, kinh nghiệm từ nhiều người, tôi
không có thần tượng, kể cả khi còn trẻ. Tuy nhiên, một người phụ nữ mà tôi kính
trọng, mến mộ là bà Nguyễn Thị Bình, một phần có thể do bản thân tôi có giai
đoạn làm ngoại giao. Tôi nhớ giai đoạn sang Paris để đàm phán cho Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, nhiều bạn bè quốc tế phải thừa
nhận là bà Bình rất đẹp. Thời kỳ đó, đất nước còn khó khăn, phụ nữ không có
điều kiện chăm sóc sắc đẹp, ăn mặc cũng giản dị bình thường. Nhưng hình ảnh bà
Bình thời đó phải nói là sang trọng, sự sang trọng tự nhiên dù không phục sức
gì đặc biệt. Còn về trí tuệ, bà rất sắc sảo. Ngày nay, ở tuổi 90, sự bận tâm
của bà dành cho đất nước, xã hội Việt Nam vẫn tràn đầy càng làm tôi kính trọng
bà.
Bình đẳng giới cần có thời gian
* Đấu tranh cho nữ quyền đang trở thành
một “trào lưu”, nhưng bà có nghĩ khái niệm bình đẳng nam nữ là
có tồn tại? Theo bà, sự bình đẳng nên được nhìn nhận ra sao cho
phù hợp?
- Câu chuyện về bình đẳng ngoài xã hội và gia đình đúng là còn
chênh lệch. Trong gia đình tồn tại sự bất bình đẳng nhiều hơn bên ngoài. Tuy
nhiên, sự bất bình đẳng đó có lẽ lỗi một phần do người phụ nữ. Tôi nghĩ chúng
ta cần xác lập một trật tự tự nguyện giữa vợ chồng trong trách nhiệm thực hiện
các công việc trong không gian gia đình. Nếu ban đầu không xác lập mà chỉ biết
nhường nhịn và hy sinh, thì sau này thay đổi sẽ gặp khó khăn. Tôi không chủ
trương 50/50 một cách cứng nhắc, nhưng sự chia sẻ và trách nhiệm gánh vác cùng
nhau thì nên được thỏa thuận và xác lập ngay từ ban đầu một cách tự nhiên.
Còn sẻ chia thế nào thì kinh nghiệm cá nhân của tôi là tùy theo sở
trường từng người trong gia đình. Chẳng hạn, chồng tôi không giỏi máy móc nên
thay bóng đèn thì tôi làm, nhưng chồng tôi có thể rửa bát giúp tôi. Vậy nên
không có công thức chung cho mọi gia đình, vì cuộc sống vốn muôn màu. Tôi chưa
bao giờ phải “phân công” chồng bằng lời nói, mà từ sự tôn trọng và thông cảm
lẫn nhau, chia sẻ đến một cách tự nhiên.
* Có nên áp dụng những tiêu chuẩn ứng
xử của những xã hội đã có quá trình đấu tranh cho bình đẳng
giới từ lâu vào Việt Nam không?
- Công bằng mà nói tại Việt Nam, nam giới đã thừa hưởng được một
số ưu thế theo trật tự xã hội đã xác lập từ lâu, do đó cũng nên sẻ chia bớt với
người phụ nữ. Đây không phải là điều gì quá lớn lao. Đó không phải là chiếu cố,
ban ơn, mà tạo điều kiện để xác lập lại một sự cân bằng về cơ hội. Tùy mỗi xã
hội mà sự tháo gỡ này nhanh hay chậm, theo xu hướng nào.
y dựng bình đẳng giới cần tạo nên từ sự đồng thuận, ủng hộ của
toàn xã hội, và đòi hỏi rất dày công. Giáo dục, quảng bá, đấu tranh, vai trò
của truyền thông, nhà trường, cơ quan chuyên trách... không thể đốt cháy hẳn
một giai đoạn nào, mà chỉ có thể đẩy nhanh trong một chừng mực nào đó.
* Bà quan tâm rất nhiều đến giáo dục, đến giới
trẻ. Bà có lo âu không khi giới trẻ Việt Nam đang trong thời kỳ đón
nhận rất nhiều giá trị mới? Phải làm sao để hạn chế bớt
những ảnh hưởng tiêu cực của sự chuyển giao các giá
trị cũ - mới lên giới trẻ?
- Kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, quá trình đó
tạo ra rất nhiều xáo trộn ở nhiều mặt: văn hóa, xã hội, giáo dục... Sự mất mát
dần các giá trị cũ, xuất hiện các giá trị mới cũng diễn ra. Giá trị mới không
phải lúc nào cũng tích cực hoặc chúng bị đón nhận một cách lệch lạc. Đó là điều
mà những người có trách nhiệm trong xã hội cần chú ý điều chỉnh, hướng sự đam
mê năng nổ của lớp trẻ đi đúng hướng. Điều này không thể diễn ra một sớm một
chiều, và cũng không thể mặc kệ theo kiểu suy nghĩ “để khi đất nước giàu có
hơn, mọi việc sẽ tự sắp xếp đâu vào đấy” được. Nó còn đòi hỏi sự nỗ lực chủ
quan rất lớn của những người có ý thức và có trách nhiệm trong việc điều chỉnh
và định hướng.
* Nhiều người nhìn nhận, ở một xã hội
biến đổi nhanh như Việt Nam hiện tại thì dạy con là
cả vấn đề. Theo bà, cần xem trọng những yếu tố nào nhất trong
khái niệm “dạy con”?
- Nói cô đọng là vừa phải khuyến khích trẻ phát huy tiềm năng,
năng lực của mình, đồng thời phải giáo dục trẻ biết cách ứng xử đúng đắn trong
xã hội, và phải dạy trẻ biết giới hạn quyền tự do của mình ở đâu. Quan trọng,
nên đặt mục tiêu dạy trẻ trở thành người trung thực, lương thiện và tự lập.
* Xin cảm ơn bà!
Kim Ngân (thực hiện)
INBOX: Bà Tôn Nữ Thị Ninh sinh ra tại Huế và theo gia đình sang
Pháp từ nhỏ. Sau đó, bà cùng gia đình trở về Sài Gòn, học trung học tại Trường
Marie Curie trước khi quay lại châu Âu và học ở Đại học Paris (Pháp) và Đại học
Cambridge (Anh). Từ thời còn ở Pháp, bà đã tham gia hoạt động với Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với vai trò là người trợ giúp vòng ngoài cho
phái đoàn đàm phán của Việt Nam tại Paris trong những năm 1968-1972 và một số
lần đảm nhiệm phiên dịch tiếng Anh trong các cuộc tiếp xúc không chính thức cho
Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình. Bà từng dạy Anh văn và văn học Anh ở Đại học
Sorbonne. Đến khi về nước năm 1972, bà làm Phó trưởng phân khoa của phân khoa
Anh ngữ (Đại học sư phạm Sài Gòn). Bà từng là đại sứ của Việt Nam tại Bỉ,
Luxembourg kiêm trưởng phái đoàn đại diện Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu,
Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Bà cũng từng là Ủy viên Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét