Thứ Năm, 4 tháng 2, 2021

MỘT QUÃNG ĐÈO - HAI VÙNG SÔNG NƯỚC

 

1.  Sông và văn hoá sông nước

Sông là một hằng s cùng các hằng s khác như núi, biển, đèo, cảng thị cấu thành hệ sinh thái nhân văn có tính đặc thù của nhiều vùng miền Trung. Bình Định và Phú Yên cũng như các tỉnh miền Trung khác, sông bắt nguồn từ Đông Trường Sơn chảy theo hưống tây - đông chia cắt địa hình thành từng ô hẹp từ núi tới biển.


Bình Định có 5 dòng sông chảy:

Tam Quan, sông Lại, La Tinh

Côn Giang uốn khúc, Hà Thanh lượn lờ.

Phú Yên cũng có:

Sông Cầu, sông Cái, sông Ba

Vào sông Bàn Thạch lộng toà Đá Bia.

Văn hoá là lối sng, thế ứng xử vi môi trường tự nhiên và môi sinh xã hội. Sông hàng ngàn đi vùng sông nước, con ngưi có cách nghĩ, cách ứng xử, cách hành động thích nghi với môi trưng tạo nên một nền văn hoá sông nước.

Văn hoá sông nước là thành t không thể thiếu được trong tổng thể cấu trúc văn hoá vùng ở miền Trung. Nhất là khi giao thông đưng bộ, đường sắt, đường hàng không chưa phát triển mạnh, khi việc xây kè đắp đập ngăn sông làm thuỷ lợi chưa thịnh hành, thì sông nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giao lưu kinh tế văn hoá trong từng vùng, nên văn hoá sông nưc thăng hoa trên hai phương diện hữu thể và vô thể.

Văn hoá sông nước được tính từ thượng nguồn xuông hạ bạn bao gồm: vùng khe suối đầu nguồn, vùng ven sông và bàu đầm (do sông chuyển dòng để lại), vùng vũng vịnh (do cửa sông hay biển ăn sâu vào đất liền). Trong tiến trình phát triển lâu dài, văn hóa sông nước không chỉ giao lưu, giao thoa mà còn gắn bó vi văn hoá núi ở thượng nguồn, văn hoá châu thổ trung lưu, văn hoá biển ở hạ lưu thành một thể thng nhất văn hoá vùng miền Trung. Một nhà thơ đứng trước thắng cảnh đập Đồng Cam trên sông Ba (Phú Yên) đã hình tượng hóa mối quan hệ này:

Non giữ nguồn sông che chở nước

Nước nuôi đồi đất điểm trong non

Đúc chung một khối tình non nước

Khó nỗi chia lìa khối nước non.

(Huỳnh Khinh - 1942)


2. Văn hoá sông nước Bình Định - Phú Yên tuy hai mà một

Mặc dầu có dãy Cù Mông làm ranh giới giữa hai tỉnh, nhưng đèo Cù Mông ch cao 245 thưc. Từ xa xưa, ngoài đường biển, đường đèo còn có đường bộ thoai thoải vòng qua La Hai mà ngày nay đường sắt vẫn phải nương theo. Lằn ranh Cù Mông không là trở ngại ln cho giao lưu kinh tế - văn hoá ở hai phía bắc và nam đèo.

-  Về địa lý văn hoá, Bình Định và Phú Yên cùng nằm trên vùng đất lồi nhô ra biển Đông của bán đảo Đông Dương, thuận tiện cho việc đón nhận các luồng văn hoá nam - bắc, đông - tây bằng đường thủy qua nhiều thời đại. Một học giả phương Tây đã cho đây là "ngã tư đường của các văn hoá và các cư dân". Cù Lao Xanh (Poulo Gambir) khi thuộc Phú Yên, khi thuộc Bình Định từng là ngọn tiêu phong của tàu thuyền viễn dương ngày xưa.

-  Về lịch sử văn hoá, từ thượng cổ đến nay, các chủng người phương Nam, Inđônésien, Nam Á, Nam Đảo nối tiếp nhau xây dựng nên nền văn hóa bản địa trên đất Bình Định - Phú Yên, sáng tạo nên văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá Champa rực rỡ một thời trong cùng quản hạt Vijaya. Tới thời Đại Việt, Phú Yên ni tiếp Bình Định làm đất trấn biên, sang thời Đại Nam hai tỉnh khi nhập làm một, khi tách làm hai.

Bối cảnh địa lý - lịch sử sâu rộng trên đã làm cho văn hoá - văn hoá sông nước Bình Định và Phú Yên cùng chung một cội nguồn, có vn nội sinh và điều kiện tiếp biến nhân tổ ngoại sinh ging nhau, để từ đó tạo nên nhiều dạng thức văn hoá tương đồng.

Các dân tộc thiểu s miền núi ỏ Bình Định - Phú Yên như Bahnar, H'rê, Ê Đê, Chăm H’roi dựa vào khe suối để lập làng, theo tín ngưỡng đa thần, không biết đến đền chùa, nhà th, không chịu ảnh hưởng Nho, Phật, Lão và Bàlamôn giáo. Trong nếp sng thưng ngày của đồng bào còn lưu lại ít nhiều dấu vết người Nam Á, Nam Đảo. Điều đáng chú ý là ngày nay tuy sống ở vùng rừng núi sâu nhưng trong huyền thoại và sử thi của đồng bào còn kể lại: thời xa xưa, tổ tiên từ biển khơi vào đất liền nhưng thấy vùng hạ lưu, trung lưu các dòng sông đã đông người ở nên theo sông lên thượng nguồn lập làng, sử thi Bông Dyông của người Bahnar Konkđeh An Khê còn kể: xa xưa tổ tiên họ lập làng dưới đáy biển. Người Bahnar Tô Lô Đồng Xuân còn cho: vốn xưa họ hải đảo và ven biển miền Trung, do chiến tranh bộ tộc mà phải theo sông suối lên vùng núi cao. Những câu chuyện trên đây phản ánh thu xưa ngươi Nam Đảo đã vượt biển khơi vào định cư ở Bình Định - Phú Yên. Đàn đá, kèn đá tìm thấy ỏ Phú Yên, thành Tà Cơn hiện còn xếp bằng đá cao ngất bên thượng nguồn sông Côn Vĩnh Thạnh phải chăng là chế tác đá của người Sa Huỳnh để lại? Nằm giữa vùng phân b chủ yếu của văn hoá Sa Huỳnh, nhiều di chỉ văn hoá Sa Huỳnh ven sông, ven đầm ở Bình Định - Phú Yên cho thấy người Sa Huỳnh vừa giỏi nghề nông, nghề thủ công, vừa giỏi nghề sông nước. Trong giao lưu văn hoá Sa Huỳnh vi văn hoá Đông Sơn, trng đồng Đông Sơn đã theo đường sông lên miền núi phía tây Bình Định - Phú Yên. Mây năm gần đây bảo tàng Bình Định đã phát hiện ra nhiều trng đồng thưng nguồn các dòng sông.

Tới thời Champa vi kiến trúc điêu khắc tuyệt mỹ, nhiều thành cổ, tháp cổ rêu phong còn đứng trầm mặc ven bờ sông Côn, sông Ba mang theo biết bao huyền thoại, truyền thuyết về thi vàng son của người Chăm, về kỹ thuật đóng thuyền và nghề sông nước, về những trận thủy chiến thư hùng thuở trước.

Ngưi Việt di cư vào Bình Định - Phú Yên chủ yếu bằng đường thuỷ. Họ dong thuyền tới các cửa biển rồi theo sông lan tỏa sâu vào đất liền và lên tận miền núi. Tới địa bàn mới, tiếp biến văn hoá Chăm, một nền văn hoá Việt mang sắc thái mới hình thành. Văn hoá sông nước của người Việt ở Bình Định và Phú Yên về cơ bản là tương đồng.

Trước hết là tiếng nói, cả hai vùng đều dùng chung một s từ địa phương trong nghề sông nước như: nẫu, bậu, tui, qua, dã, xiết, trủ, ngao, chồ, xúc, sáo đời, sáo đất, nghề nò, nghề đón, nghề chà, v.v.

Cách ăn mặc phải thích hợp với nghề sông nước theo cách nói phóng đại trong ca dao cả hai vùng:

Quê tôi chín áo một quần

Chân phèn dầu rửa mười lần chưa trơn.

Cảnh làm ăn của gia đình ngư dân trên đầm Thị Nại cũng như trên đầm Cù Mông tất bật quanh năm:

Cha chài, mẹ lưới, con câu

Chàng rể xúc tép, con dâu đi mò.

Thế mà vẫn:

Quanh năm ăn những ốc sò

Cũng hoàn rách rưới chẳng no ấm gì.

Ngày xưa, hằng năm vào dịp đầu xuân, cả hai vùng bắc và nam đèo Cù Mông đều tổ chức lễ hội cầu ngư (tế thần cá voi) tiếp biến văn hoá Chăm, hội lễ Chùa Bà (tế Thiên Hậu Thánh Mẫu) tiếp biến văn hóa Hoa và các tế lễ truyền thng của người Việt như tế cô hồn sông nước với chén nước sông linh thiêng, tế Hà Bá các bến sông để cầu mong tai qua nạn khỏi, được mùa tôm cá. Cả hai cùng đều có các hình thức dân ca trong hội lễ như: hát bả trạo, hô bài chòi, vè các lái, vè con cá, vè con lươn, hò khoan, hò chèo thuyền, hò vãi chài, hò kéo lưới, v.v.

Riêng truyện dân gian, cả hai vùng đều có các típ truyện: Khổng Lồ, Chằn Tinh, Thần Rít, Hà Bá, Ngư Nữ, hòn Vọng Phu, Cao Biền hoá phép, v.v.

Còn ca dao thì có chung rất nhiều mô típ: chiều chiều, ngồi buồn, ra đi, anh đi, em về, ai lên, ngó qua, nghèo như anh, nghèo như em, thuyền về, cầm chài, v.v. cùng đùng thủ pháp liệt kê để kể tên các nghề sông nưc, các loại cá, tôm, cua, các vung, các dòng sông, các bến đò, v.v. Có khá nhiều câu ca dao Bình Định và Phú Yên cùng chung cấu trúc ngôn ngữ chỉ thay đổi tên người tên đất mà thôi. Thậm chí. có câu còn ging nhau hoàn toàn:

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Cá ăn mất nhợ, vễnh râu mà ngồi.

Các mô típ Ông Đô, Ông Đội”, Ông Lũ có tên mà không xác định đều được sử dụng trong ca dao hai vùng với ý nghĩa trào phúng.

Từ những tương đồng văn hoá nêu trên cho thấy lằn ranh Cù Mông chỉ phân chia về địa lý, mà không ngăn cách giao hòa văn hoá gia hai vùng, nên có thể nói văn hoá sông nước Bình Định - Phú Yên tuy hai mà một.


3.  Cùng cội nguồn và dạng thức nhưng có biến đổi ít nhiều sắc thái

Về cơ bản, văn hoá sông nước Bình Định - Phú Yên là ging nhau, nhưng vì điều kiện tự nhiên xã hội của hai vùng có khác nhau, nên mỗi vùng mang sắc thái địa phương của mình.

Sông nưc mỗi vùng có vẻ đẹp riêng.

Sông Côn còn vang vọng sóng thuyền binh Tây Sơn và nghĩa quân cần Vương thuở trước:

Bóng nghĩa kỳ chờn vờn mặt sóng

Trống binh nhung đồng vọng lưng mây.

Thì sông Bàn Thạch lại in bóng Thạch Bi Sơn hùng vĩ:

Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc

Núi Đá Bia cao vút từng mây.

Đầm Thị Nại lưu bóng bao trận thuỷ chiến oai hùng làm nổi chìm thế sự mấy triều đế vương.

Non mây nghi ngút nơi binh dữ

Biển sáng chưa tan bọt máu hường.

Thì đầm Ô Loan lại tĩnh lặng, cô liêu trước thăng trầm lịch sử:

Chơ vơ như ngọn núi sầm

Thản nhiên như mặt nước đầm 0 Loan.

Cảnh đi đổi thay, con ngưi cũng có khác, Phú Yên con trai Ngũ Thạch chăm lo đèn sách, con gái Bàu Hương đã đẹp lại ăn nói có duyên và đa tình nên có câu:

Trai Ngủ Thạch

Gái Bàu Hương.

Bình Định con trai An Thái ham võ nghệ, giỏi côn quyền, con gái Phú Phong giỏi nghề canh cửi, ngồi dệt lụa quanh năm bên sông Côn, nước da trắng ngần nên có câu:

Trai An Thái

Gái Phú Phong.

Sắc thái địa phương còn thể hiện sản vật sông nước từng vùng.

Bình Định có:

Bồi nước mắm thơm ngon

Ai đi củng nh cá tôm Gò Bồi.

Phú Yên có:

Cá ngon là cá Cù Mông

Gạo ngon là gạo đồng Phú Dương.

Các chàng trai Đập Đá, Gò Găng ở Bình Định sành nghề làm xa quay sợi, đóng khung cửi đã gieo vào lòng cô gái làm nghề canh cửi thượng nguồn sông Côn nỗi nh mong khi chàng mang bào, đục trở về quê:

Anh về Đập Đá, Gò Găng

Để em kéo vải đêm trăng một mình.

Ngược lại, có chàng trai Phú Yên ở Tuy An lại say đắm cô gái làm nghề chài lưới tận dưới xã An Vinh, để bạn cũ ở trên nguồn phải than trách:

Anh về làm rể dưới Đăng

Để em kéo vải đêm trăng một mình.

Cùng mô típ: mượn ngựa Ông Đô, mượn dù chú xã (chú lính), ngựa ô đi trước ngựa hồng theo sau để rưc dâu; nhưng ca dao Bình Định là rưc dâu lên miền ngược nên có cảnh:

Cô về cô đứng đầu truông

Ngựa ô đi trước ngựa hường (hồng) theo sau.

Còn ca dao Phú Yên lại rưc dâu miền xuôi theo đưng cái quan ngày xưa mới có cảnh:

Ngựa ô đi đến Quán Cau

Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau Gò Điều.

Trong ca dao của cả hai vùng, thường gặp những bài cùng một khung câu tạo, chỉ thay đổi một ít, một vài chi tiết cho phù hợp vi từng vùng đã tạo nên hiện tượng "đại đồng tiểu dị".

Thu Bình Định mới tr thành đất Trấn Biên, ở Đa Lộc huyện Đồng Xuân, vùng thượng nguồn sông Cái (Phú Yên) và sông Hà Thanh (Bình Định) có bà Giác người Chăm H’roi đã cùng thị tộc tiếp xúc với ba gia đình người Việt mới vào định cư Diên Trì bên bờ sông Hà Thanh. Mối quan hệ ban đầu giữa người Chăm H’roi và người Việt được huyền thoại hóa thành câu chuyện "Con chó tinh khôn của Bà Giác và ba miếng trầu của người Việt" còn được lưu truyền trong đồng bào Chăm H'roi ở Vân Canh đã mở đầu quan hệ ngược xuôi mới.

Ai lên nhắn với nẫu nguồn

Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.

Câu ca tr thành quen thuộc với người thượng nguồn và hạ bạn ở cả hai vùng từ đó.

*

* *

Cái "đại đồng" trong văn hoá - văn hóa sông nước Bình Định và Phú Yên đã làm cho hai vùng là một, cái "tiểu dị" lại làm cho mỗi vùng có sắc thái địa phương của mình.

Trước ngày vào kinh lý Phú Yên, Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh vn là tri huyện Tuy Viễn, Bình Định. Chắc hẳn khi ông đưa người vào khai phá ba vùng Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông Phú Yên đã có nhiều ngưi Tuy Viễn vào theo. Mối quan hệ văn hoá - văn hoá sông nước giữa ngưi Bình Định và Phú Yên gắn bó từ đây. Cho nên câu hát mở đầu "Anh về Bình Định chi lâu" mới được lặp đi lặp lại trong ca dao dân ca Phú Yên nhiều đến thế. Ông Nguyễn Đình Tư đã dẫn nhiều câu hát mở đầu này trong hai trang đầu cuốn Non nước Phú Yên cũng cốt để nhấn mạnh mối tình gắn bó giữa những người sinh sống bên này - bên kia đèo Cù Mông:

Anh về Bình Định chi lâu ?

Để em kéo vải hái dâu một mình!


 Nhà giáo NGUYỄN XUÂN NHÂN

Nguồn: Văn hóa sông nước miền Trung, Nxb KHXH, H.2006.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét