(LNK). Bài viết dưới đây của tác giả Phạm Quốc Ca nói về những hạn chế của thơ thiếu nhi Việt Nam, rất đáng để cho người sáng tác, dạy học lẫn thưởng thức tham khảo...
Thơ thiếu
nhi gồm hai bộ phận: 1. Thơ người lớn viết cho thiếu nhi và 2. Thơ do thiếu nhi
viết. Do khuôn khổ thời gian có hạn của một tham luận, tôi xin bàn đôi điều
về “thơ cho trẻ thơ”, nghĩa là thơ người lớn viết cho lứa tuổi mầm non.
Sáng tác
cho trẻ thơ là một công việc đầy hạnh phúc nhưng cũng không ít khó khăn. Trong
nền văn học Việt Nam
hiện đại nhiều nhà thơ bền lòng với công việc này và đã có những đóng góp đáng
trân trọng như: Huy Cận, Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải, Xuân Quỳnh, Thanh Hào,
Đặng Hấn, Nguyễn Hoàng Sơn… Một số nhà thơ khác mặc dù không chọn đề tài này
làm công việc cả đời nhưng đã có những bài thơ hay. Nhiều tác phẩm cho trẻ thơ
đã được chọn in trong sách giáo khoa, trong các tuyển tập thơ thiếu nhi, được
phổ nhạc thành các bài hát được các thế hệ trẻ thơ yêu thích, góp phần hình
thành và bồi dưỡng thế giới tinh thần của các em.
Tuy nhiên,
đọc kỹ các tập thơ thiếu nhi chúng tôi thấy vẫn còn không ít bài thơ chưa hay,
trẻ thơ không thể yêu thích. Ngay ở một số bài thơ khá hay vẫn còn có chỗ để
bàn. Xin đi vào hai vấn đề theo tôi là cơ bản nhất làm hạn chế sức hấp dẫn của
thơ cho trẻ thơ. Một là “Thơ cho trẻ thơ và vấn đề giáo dục luân lý, đạo
đức” và hai là “Phương thức trữ tình nhập vai trong thơ viết cho trẻ
thơ”.
1. Thơ cho
trẻ thơ và vấn đề giáo dục luân lý, đạo đức
Giáo dục
luân lý, đạo đức qua thơ đã có truyền thống hàng ngàn năm với quan điểm Nho
giáo “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí”. Lý luận văn học trước “Đổi mới” suốt mấy
chục năm đề cao chức năng giáo dục của văn chương. Đối tượng hướng tới của văn
học viết cho thiếu nhi cũng là đối tượng của giáo dục. Những điều đó đã hình
thành trong người làm thơ tâm thế “kép”. Nhà thơ Võ Quảng đã nói lên tâm
lý sáng tạo phổ biến: “Người viết cho thiếu nhi là một nhà văn nhưng đồng thời
cũng là một nhà giáo muốn các em trở nên tốt đẹp. Quan điểm sư phạm và văn học
viết cho thiếu nhi là hai anh em sinh đôi” (Giáo trình văn học trẻ em,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2009, trang 39).
Nhưng vấn
đề cần quan tâm không kém là những nội dung giáo dục phải được hòa tan vào thế
giới hình tượng như mật ong hòa tan trong rượu chứ không phải là thuốc nhét vào
quả chuối mà các bà mẹ hay làm khi chữa bệnh cho con. Từ xưa Lê Quý Đôn đã bàn
rất chí lí: “Thơ mạch kỵ thẳng, ý kỵ lộ”. Tiếc thay, trong nhiều trường
hợp sáng tác tâm thế nhà giáo đã lấn át tâm thế nhà thơ khiến nội dung giáo dục
luân lý, đạo đức được nói thẳng một cách thiếu nghệ thuật.
Biểu hiện cụ thể thì
nhiều nhưng chỉ xin dẫn ra đây một vài bài thơ đã được đưa vào sách giáo khoa.
Bài thơ Đàn gà con có những hình ảnh ngộ nghĩnh, rất được trẻ em yêu
thích:
Mười quả
trứng tròn,
Mẹ gà ấp ủ,
Mười chú gà
con
Hôm nay ra
đủ;
Lòng trắng
lòng đỏ,
Thành mỏ,
thành chân,
Cái mỏ tí
hon
Cái chân bé
xíu,
Lông vàng
mát dịu,
Mắt đen
sáng ngời,
Ơi chú gà
ơi!
Ta yêu chú
lắm.
Nhưng đây
mới là một nửa bài thơ. Nửa còn lại không được hay như vậy. Đặc biệt là khổ
kết:
Là gà của
bé,
Chú nhớ
đừng quên,
Ăn khỏe,
lớn khỏe
Đẻ rõ nhiều
lên.
Thật tiếc
cho bài thơ dễ thương đến thế lại có cái kết thực dụng, phản mỹ cảm. (Đó là
chưa kể lỗi dùng từ: chú thì làm sao mà đẻ được?).
Bài thơ Mời
vào cũng đã được đưa vào sách giáo khoa. Bài thơ ngộ nghĩnh, vui tươi nhằm
giáo dục ý thức cảnh giác với kẻ xấu:
- Cốc!
Cốc! Cốc!
- Ai gọi
đó?
…
- Nếu là Thỏ
Cho xem tai
…
- Nếu là Nai
Cho xem gạc
…
- Nếu là Vạc
Cho xem chân…
Bài thơ kết thúc bằng ý thơ mời Gió vào nhà và rủ gió:
Đi khắp miền
Làm việc tốt.
Cái kết này vừa lạc mạch khỏi tứ thơ, vừa có hại cho thi tính.
Văn hào L.Tônxtôi còn là nhà giáo dục vĩ đại.
Ông không chỉ sáng tác nhiều tác phẩm cho thiếu nhi mà còn dịch văn học nước
ngoài về đề tài này. Khi dịch truyện ngụ ngôn của Êdôp ông đã bỏ tất cả các
đoạn kết có tính chất giáo huấn. Viết đến đây tôi chợt nhớ mãi một chuyện vui.
Bố con nhà nọ ngồi chơi với nhau. Cậu bé hỏi: “Bố ơi! Vì sao trên đầu bố lại có
những sợi tóc bạc?”. Ông bố trả lời: “ Vì con hư đấy! Cứ mỗi lần con không
ngoan là tóc bố lại bạc đi một sợi”. Cậu bé chợt reo lên: “Thế thì con đã hiểu
vì sao tóc bà nội lại bạc trắng cả đầu như vậy!”. Ông bố bị hố to vì đã gò sự
sống tự nhiên vào đạo đức, cứ nhăm nhăm dạy đạo đức trong mọi trường hợp.
2. Phương thức trữ tình “nhập vai” trong thơ cho trẻ thơ
Nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết những câu thơ giản dị mà đẹp như chân lý:
Trẻ thơ như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
Tôi cứ nghĩ thơ cho trẻ thơ phải là thơ hợp
với thiên tính tự nhiên của trẻ. Có nhiều phương thức trữ tình nhưng trong thơ
viết cho trẻ thơ phương thức “nhập vai” vẫn là hiệu quả nhất. Nhà thơ phải dùng
tưởng tượng sáng tạo để nhập vai, cảm nhận thiên nhiên và cuộc sống con người
bằng con mắt hồn nhiên của trẻ thơ. Nếu không làm được điều này người làm thơ
sẽ rơi vào trạng huống mà đồng nghiệp hay nói vui là ông này cưa sừng làm
nghé!. Trường hợp đáng tiếc nữa cũng sẽ xảy ra là lẫn thơ người lớn vào thơ
cho trẻ thơ. Thí dụ thì nhiều nhưng xin dẫn ra đây bài thơ Con chim chiền
chiện cũng đã được đưa vào giáo khoa. Bài thơ có những câu tuyệt hay:
Bay cao, cao vút
Chim biến mất rồi,
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời…
Thật tiếc là bên cạnh đó lại có những câu không một chút trẻ thơ:
- Chim ơi, chim nói
Chuyện chi, chuyện chi?
Lòng vui bối rối
Đời vui đến thì.
- Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.
Những câu thơ ấy làm xuất hiện câu hỏi nơi
người tiếp nhận: bài này tác giả viết cho trẻ thơ hay viết cho chính ông?
Mỗi lứa tuổi có cách cảm nhận cuộc sống khác
nhau. Để nhập vai nhà thơ phải huy động ký ức tuổi thơ và tưởng tượng sáng tạo.
Là người lớn nhiều khi ta đã quên trẻ thơ suy nghĩ, cảm xúc như thế nào. Vì vậy
phải hết sức tinh tế khi muốn thể hiện chất thơ của sự ngây thơ con trẻ. Không
tinh tế ở chỗ này người làm thơ sẽ biến sự ngây thơ thành ngớ ngẩn. Tác giả bài
Trăng cuả bé đã viết:
Thức dậy bé ngơ ngác
Vội chạy đi tìm trăng
Trăng trốn đâu kỹ thế
Để sân trời bỏ không?
Trẻ thơ có thể ngơ ngác tự hỏi trăng trốn ở
đâu khi trời sáng nhưng vội chạy đi tìm trăng thì đứa bé này phải nói là
bất thường!
Một trong những đặc điểm tâm lý của trẻ thơ là
cảm nhận cuộc sống một cách hồn nhiên, cụ thể, cảm tính. Không lưu ý đặc điểm
này, một số nhà thơ đã gò ép tự nhiên vào cái khung cứng nhắc của tứ thơ chủ
quan. Có thể dẫn ra đây một số ví dụ. Bài thơ Hoa xoan, hoa đào gồm bốn
câu như sau:
- Sao hoa xoan, hoa đào
Không nở cùng một lúc?
- Hoa chia nhau trực mùa
Như các con trực lớp.
Sứ mệnh của hoa là làm đẹp. Nhiệm vụ trực lớp chủ yếu là làm vệ sinh nơi
học. Với thủ pháp so sánh cái đẹp đã bị quy về tinh thần trách nhiệm, không
tránh khỏi khô khan, khiên cưỡng.
Bài thơ Giếng than cấu tứ theo kiểu tương đồng, tương đồng hai sự
vật giếng than và giếng nước. Thật ra, ngoài đặc điểm cùng có chiều sâu nên
cùng được gọi là giếng, giữa giếng than và giếng nước không có gì tương đồng.
Nói đến giếng than là nghĩ đến vất vả, lam lũ, thậm chí nguy hiểm. Ý muốn giáo
dục trẻ thơ tình yêu lao động đã dẫn đến việc thơ mộng hóa giếng than một cách
khiên cưỡng:
Ơ ngọn đèn lò
Đi vào giếng than
Ngỡ ông trăng vàng
Bơi trong giếng nước.
Bài thơ Gửi chú ở Trường Sa nói lên tình cảm thương yêu của cả nhà
đến người lính đảo. Ông gửi cân thuốc lào, bà gửi bột chanh và
hai cân đường trắng, mẹ gửi hạt cải, hạt dền. Còn các cháu của chú
thì:
Đăng, Tuấn, Long cuống lên
Đồng thanh và nhất trí
Gửi chú cậu cóc bé
Tha hồ Trường Sa mưa.
Đọc thơ ta không khỏi phì cười. Từ suy nghĩ chủ quan: trẻ thơ là ngây thơ,
nghĩ đến câu đồng dao Con cóc là cậu ông trời, cóc kêu trời sẽ mưa, tác
giả đã biến ba đứa trẻ thành những kẻ thần kinh có vấn đề.
Trong bài thơ Giàn gấc tác giả đã viết:
Trái gấc xinh xinh
Chín vàng nắng đỏ
Bao nhiêu
mặt trời
Ngủ say
trong đó.
Bài thơ
được viết với bút pháp hiện thực chứ không phải bút pháp huyền ảo. Bằng con mắt
hồn nhiên, cụ thể, cảm tính trẻ thơ luôn thấy quả gấc bé hơn mặt trời. Thật khó
chấp nhận ý thơ nói có nhiều mặt trời ngủ trong quả gấc.
Còn nhiều
điều cần bàn khác nhưng thời gian dành cho tham luận có hạn tôi xin dành lại
dịp khác. Điều mong muốn của trẻ thơ và người đọc thơ nói chung là hãy đem đến
cho các em những tác phẩm khơi gợi akhả năng cảm nhận cuộc sống bằng mỹ cảm,
đem đến cho các em cái hay, cái đẹp giàu nhân tính. Trách nhiệm của các nhà thơ
thật nặng nề nhưng cũng đầy hạnh phúc.
Đà Lạt, 08 - 5 – 2012
Nhà thơ - Tiến sĩ Phạm Quốc Ca
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét