Trong
sáng tác văn học, một thể loại truyện cổ tích do các nhà văn sáng tác mà cội
nguồn của nó gần gũi và gắn bó mật thiết với truyện kể dân gian, trong đó,
trước nhất phải kể đến truyện cổ tích dân gian.
Thể loại văn học này phản ánh
rõ nhất mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết. Truyện cổ tích của
nhà văn là một hiện tượng lớn, tồn tại trong lịch sử hình thành và phát triển
của nhiều nền văn học trên thế giới. Có thể nói, đây là thể loại xuất hiện
tương đối sớm trong nền văn học viết của mỗi dân tộc và không ngừng tồn tại,
phát triển cho đến ngày nay mà cội nguồn, nền tảng của nó chính là kho tàng
truyện kể dân gian. Truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện
cười... đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thể loại này.
Truyện cổ Anđecxen ở Đan Mạch, truyện cổ tích của A.X. Puskin, M.E. Xantưcôp –
Sêđrin, L.N. Tônxtôi ở Nga... là những thí dụ sinh động về sự hiện diện của thể
loại này trong nền văn học của các dân tộc đó. Ở Việt Nam, một số sáng tác của
các nhà văn như Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Tú Nam, Phạm Hổ... từ trước Cách
mạng tháng Tám 1945 đến nay, cho chúng ta thấy có một thể loại văn học
mang phong cách dân gian đã xuất hiện trong văn học nước ta. Đó là truyện cổ
tích được sáng tác chủ yếu bởi các nhà văn.
1.
Về khái niệm thể loại truyện cổ tích của nhà văn
Ở Nga,
các nhà folklore đều thống nhất sử dụng thuật ngữ truyện cổ tích văn học (
literaturnaia xkadka). Truyện cổ tích của L. Tônxtôi, truyện cổ tích của A.
Puskin... thuộc loại này và để phân biệt với truyện cổ tích dân gian (narôtnaia
xkadka). Còn giới nghiên cứu ngữ văn và folklore học Việt Nam lại
sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ thể loại này. Trên tuần báo Văn
nghệ số 21 năm 1984, khi đánh giá các tập Chuyện hoa chuyện quả
của Phạm Hổ, tác giả Thu Thảo sử dụng thuật ngữ cổ tích mới : “Với thể
loại truyện cổ tích mới này, Phạm Hổ đã đạt tới yêu cầu khắt khe của
sáng tác cho thiếu nhi, đó là việc bồi bổ xúc cảm, sự phát triển của năng lực
tưởng tượng, liên tưởng”.
Nhận
xét về sáng tác của nhà văn Phạm Hổ, nhà nghiên cứu Vân Thanh cũng sử dụng khái
niệm truyện cổ tích mới: “Với thơ, anh thường qua thiên nhiên, qua
cuộc sống bình thường để làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người và qua văn xuôi,
anh lại đi sâu vào cổ tích, truyền thuyết cho các em biết được vẻ đẹp của người
Việt Nam, ca ngợi những đức tính Việt Nam. Trước hết về cổ tích, Phạm Hổ đã
mạnh dạn sáng tác truyện cổ tích mới cho các em". (1)
Còn nhà
nghiên cứu Chu Xuân Diên thì gọi đây là truyện cổ tích của văn học thành
văn. Ông còn giải thích rõ thêm: tức là sáng tạo của cá nhân nhà văn
và được cố định hóa bằng ngôn ngữ viết (2).
Tùy
từng nhà nghiên cứu mà thuật ngữ được sử dụng khác nhau: truyện cổ tích
mới, truyện cổ tích văn học, truyện cổ tích thành văn, truyện cổ tích của nhà
văn... Rõ ràng là vấn đề xác định thể loại này cho đến nay trong giới
nghiên cứu vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất.
Trong
khi chờ đợi các nhà khoa học đưa ra được một thuật ngữ chính xác hơn, gọi đúng
và lột tả được bản chất của thể loại này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ truyện cổ
tích của nhà văn, với quan niệm đây là một thể loại thuộc sáng tác văn học viết
và phân biệt với truyện cổ tích dân gian ở đặc trưng thi pháp của nó.
2.
Đặc trưng thể loại truyện cổ tích của nhà văn
Chúng
tôi quan niệm rằng, truyện cổ tích dân gian và truyện cổ tích được sáng tạo bởi
các nhà văn là những thể loại với đầy đủ các đặc trưng của nó. Chúng ta nhận
thức rõ rằng, truyện cổ tích dân gian là một trong những thể loại văn xuôi thể
hiện quan niệm của con người về thiên nhiên, về thế giới xung quanh mình, nhưng
lại không phải biểu hiện nhận thức và sự sáng tạo nghệ thuật một cách có ý
thức, không có phạm trù thế giới quan, mà chỉ có phạm trù thẩm mĩ. Thế giới
trong truyện cổ tích dân gian đó là thế giới của những con người bình thường,
thể hiện mình thông qua những hành động phi thường, diễn ra trong những hoàn
cảnh đặc biệt. Ở đó, loài vật mang phẩm chất của con người, nhân vật là những
sinh vật thần kì, những đồ vật có phép nhiệm màu hoạt động. Hư cấu là một trong
những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích dân gian.
Trong
truyện cổ tích dân gian, việc mô tả nhân vật thường theo khuynh hướng nội dung
có sẵn, không qua cá tính hóa mà theo con đường trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Nhân vật trong truyện cổ tích dân gian mang đặc điểm tâm lí và khắc họa chân
dung ngắn gọn, được xây dựng chủ yếu qua con đường đối thoại và hành động. Do
vậy, hành động là quy luật xây dựng cốt truyện của truyện cổ tích dân gian.
Việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh có tính chất hoang đường để nhân vật thực hiện
mục đích bằng hành động của mình đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích
dân gian. Trong bất kì truyện cổ tích dân gian nào, những bước ngoặt bất ngờ
của cốt truyện bao giờ cũng có ý nghĩa đặc biệt cho sự phát triển hành động của
cốt truyện.
Truyện
cổ tích dân gian là những tác phẩm thường bằng văn xuôi truyền miệng, hư cấu
với hình ảnh kì vĩ, có cấu trúc kết cấu truyện ổn định và hướng đến người nghe
bằng hình thức kể chuyện.
Vậy
truyện cổ tích của nhà văn khác truyện cổ tích dân gian như thế nào?
Truyện
cổ tích dân gian vốn lưu truyền bằng hình thức truyền miệng và về sau được ghi
chép lại. Việc truyện cổ tích dân gian được kể lại, thuật lại và ghi chép lại
là kết quả của sự xâm nhập của văn học viết, của sáng tạo cá nhân vào lĩnh vực
nghệ thuật mang tính tập thể. Trong quá trình ghi chép này làm xuất hiện một số
khuynh hướng. Thứ nhất, một số tác giả trong khi thuật lại, kể lại đã nhấn mạnh
đến ý nghĩa tư tưởng của truyện cổ tích, một số khác quan tâm đến phong cách
dân gian hóa qua sự biểu hiện của tục ngữ, thành ngữ hoặc đưa vào truyện cổ
tích những yếu tố, thành phần không mang tính đặc trưng thi pháp dân gian như
thay đổi vị trí, sử dụng vốn từ sách vở, từ địa phương... Sự chế tác văn học khác
với việc kể lại, thuật lại ở mức độ thâm nhập của cá nhân vào trong truyện cổ
tích dân gian. Trong văn bản chế tác văn học có thể thấy được một số yếu tố
thuộc phong cách viết nổi trội hơn phong cách kể chuyện dân gian. Phong cách
viết làm cho tính toàn vẹn của hệ thống nghệ thuật của truyện cổ tích dân gian
bị phá vỡ, nhưng về cơ bản những đặc trưng được quy định của một tác phẩm cụ
thể được bảo lưu. Tác phẩm chế tác văn học thể hiện một chất lượng khác hơn so
với việc thuật lại, chép lại, kể lại ở chỗ vai trò ban đầu của tác giả thể hiện
trước hết là ở hình thức kể chuyện, thuật chuyện. Ở đây, phong cách thi pháp
dân gian được thay thế bởi phong cách kể chuyện sách vở. Vào thời kì đầu, những
thay đổi của tác giả hầu như không đụng chạm đến cái cốt lõi của cốt truyện cổ
tích dân gian. N.V. Nôvicôp cho rằng, “thường những thay đổi chỉ rơi vào ngôn
ngữ và phong cách của truyện cổ tích rất hiếm thấy ở các trường hợp thuộc hình
ảnh và cốt truyện" (3).
Quá
trình thay đổi của cả hệ thống nghệ thuật truyện cổ tích dân gian chủ yếu chỉ
thể hiện ở hình thức kể chuyện. Thường các tác giả lưu giữ cốt truyện và các
thành tố quan trọng thuộc cấu trúc kết cấu cốt truyện. Do vậy, tác phẩm sáng
tạo trong trường hợp này không khác nhiều lắm so với truyện cổ tích “nguyên bản”.
Sự chế
tác phát triển đến một mức độ nào đó trở thành đặc điểm nổi trội làm xuất hiện
sự biến đổi theo phong cách sách vở và truyện cổ tích mang phong cách văn học
viết ra đời: thoại và hành động. Do vậy, hành
động là quy luật xây dựng cốt truyện của truyện cổ tích dân gian. Việc đặt nhân
vật vào hoàn cảnh có tính chất hoang đường để nhân vật thực hiện mục đích bằng
hành động của mình đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích dân gian. Trong
bất kì truyện cổ tích dân gian nào, những bước ngoặt bất ngờ của cốt truyện bao
giờ cũng có ý nghĩa đặc biệt cho sự phát triển hành động của cốt truyện.
Truyện
cổ tích dân gian là những tác phẩm thường bằng văn xuôi truyền miệng, hư cấu
với hình ảnh kì vĩ, có cấu trúc kết cấu truyện ổn định và hướng đến người nghe
bằng hình thức kể chuyện.
Vậy
truyện cổ tích của nhà văn khác truyện cổ tích dân gian như thế nào?
Truyện
cổ tích dân gian vốn lưu truyền bằng hình thức truyền miệng và về sau được ghi
chép lại. Việc truyện cổ tích dân gian được kể lại, thuật lại và ghi chép lại
là kết quả của sự xâm nhập của văn học viết, của sáng tạo cá nhân vào lĩnh vực
nghệ thuật mang tính tập thể. Trong quá trình ghi chép này làm xuất hiện một số
khuynh hướng. Thứ nhất, một số tác giả trong khi thuật lại, kể lại đã nhấn mạnh
đến ý nghĩa tư tưởng của truyện cổ tích, một số khác quan tâm đến phong cách
dân gian hóa qua sự biểu hiện của tục ngữ, thành ngữ hoặc đưa vào truyện cổ
tích những yếu tố, thành phần không mang tính đặc trưng thi pháp dân gian như
thay đổi vị trí, sử dụng vốn từ sách vở, từ địa phương... Sự chế tác văn học
khác với việc kể lại, thuật lại ở mức độ thâm nhập của cá nhân vào trong truyện
cổ tích dân gian. Trong văn bản chế tác văn học có thể thấy được một số yếu tố
thuộc phong cách viết nổi trội hơn phong cách kể chuyện dân gian. Phong cách
viết làm cho tính toàn vẹn của hệ thống nghệ thuật của truyện cổ tích dân gian
bị phá vỡ, nhưng về cơ bản những đặc trưng được quy định của một tác phẩm cụ
thể được bảo lưu. Tác phẩm chế tác văn học thể hiện một chất lượng khác hơn so
với việc thuật lại, chép lại, kể lại ở chỗ vai trò ban đầu của tác giả thể hiện
trước hết là ở hình thức kể chuyện, thuật chuyện. Ở đây, phong cách thi pháp
dân gian được thay thế bởi phong cách kể chuyện sách vở. Vào thời kì đầu, những
thay đổi của tác giả hầu như không đụng chạm đến cái cốt lõi của cốt truyện cổ
tích dân gian. N.V. Nôvicôp cho rằng, “thường những thay đổi chỉ rơi vào ngôn
ngữ và phong cách của truyện cổ tích rất hiếm thấy ở các trường hợp thuộc hình
ảnh và cốt truyện”3.
Quá
trình thay đổi của cả hệ thống nghệ thuật truyện cổ tích dân gian chủ yếu chỉ
thể hiện ở hình thức kể chuyện. Thường các tác giả lưu giữ cốt truyện và các
thành tố quan trọng thuộc cấu trúc kết cấu cốt truyện. Do vậy, tác phẩm sáng
tạo trong trường hợp này không khác nhiều lắm so với truyện cổ tích “nguyên
bản”.
Sự chế
tác phát triển đến một mức độ nào đó trở thành đặc điểm nổi trội làm xuất hiện
sự biến đổi theo phong cách sách vở và truyện cổ tích mang phong cách văn học
viết ra đời. Một mặt, nhà
văn giữ lấy cốt truyện, chuyển nó từ văn học dân gian thành tác phẩm của mình,
mặt khác, nhà văn chỉ dựa vào nguyên tắc và phương pháp sáng tác truyện cổ tích
dân gian để tạo ra tác phẩm mới. Nói cách khác, phương thức sáng tác thứ nhất
là tuân thủ nội dung cốt truyện và thi pháp truyện cổ tích dân gian; phương
thức sáng tác thứ hai là dựa vào phong cách dân gian để xây dựng nên một tác
phẩm hoàn toàn mới. Hai phương thức sáng tác này khiến cho tác phẩm văn học
viết liên hệ với sáng tác dân gian theo hai phương diện: một là quan hệ cội
nguồn, hai là quan hệ loại hình. Chính vì vậy có thể nói rằng, thuộc tính
truyện cổ tích của nhà văn do đó là mức độ khác nhau giữa nó và truyện cổ tích
dân gian.
Mặc dù
truyện cổ tích dân gian và truyện cổ tích của nhà văn có nhiều đặc điểm chung
giống nhau, nhưng truyện cổ tích của nhà văn cũng có những nét riêng của một
thể loại văn học viết. Truyện cổ tích của nhà văn là thể loại thuộc sáng tác cá
nhân, không phải là sáng tác tập thể, mặc dù nó tiếp thu và vận dụng kinh
nghiệm thẩm mĩ dân gian. Đây là thể loại được lưu truyền bằng văn bản. Tác phẩm
có tác giả rõ ràng, văn bản là cố định và không có dị bản. Đặc điểm này để phân
biệt với truyện cổ tích dân gian là sản phẩm chung của nhiều thế hệ dân chúng,
tồn tại chủ yếu bằng hình thức truyền miệng. Như vậy, truyện cổ tích của nhà
văn đã chuyển từ hình thức truyền miệng dân gian sang hình thức văn học viết,
từ khuyết danh đến có tác giả cụ thể. Nếu ở truyện cổ tích dân gian có nhiều dị
bản khác nhau và hàng loạt mô típ nghệ thuật có sẵn được lặp đi lặp lại nhiều
lần thì truyện cổ tích của nhà văn là sáng tác phẩm duy nhất và không lặp lại,
được thể hiện thông qua cá tính sáng tạo của nhà văn và phát triển theo quy
luật sáng tạo văn học. Để phù hợp với hình thức lưu truyền bằng miệng,
cốt truyện của truyện cổ tích dân gian thường ngắn gọn đơn giản, còn ở truyện
cổ tích của nhà văn không chỉ dùng để kể mà chủ yếu là để đọc, nên bên cạnh
những cốt truyện đơn giản còn có nhiều cốt truyện phức tạp, có trường hợp có
tới hai, ba cốt truyện cổ tích dân gian khác nhau được tác giả ghép nối vào
nhau. Nếu như truyện cổ tích dân gian nặng về khái quát hóa, nhân vật mang đặc
điểm loại tính nhiều hơn, thì ở truyện cổ tích của nhà văn vừa có tính khái
quát vừa có tính cá thể. Có thể nói rằng với truyện cổ tích của nhà văn, việc
đi vào miêu tả tâm lí nhân vật bước đầu được chú ý hơn. Hơn nữa, trong truyện
cổ tích dân gian không có bình luận, có chăng chỉ là những lời giải thích sự
việc xuất hiện ở phần kết thúc câu chuyện. Còn trong truyện cổ tích của nhà
văn, lời bình luận, triết lí của tác giả không chỉ xuất hiện ở phần kết thúc mà
nhiều khi được xen lẫn vào từng phần của câu chuyện. Nhiều khái niệm mới, hiện
đại của đời sống cũng được các nhà văn sử dụng trong tác phẩm của mình. Như vậy
có thể nói, truyện cổ tích của nhà văn là tác phẩm tự sự, với hình thức sử thi
nhỏ, cốt truyện tưởng tượng, hệ thống hình ảnh ước lệ thần kì và khác với
truyện cổ tích dân gian ở quan niệm của tác giả về thế giới quan, nhiệm vụ tư tưởng
thẩm mĩ của thời đại và mối quan hệ với phương pháp nghệ thuật của nhà văn.
Ở đây,
chúng ta có thể nêu ra một vài đặc điểm cơ bản nhất để xác định nội dung khái
niệm, tính chất văn học dân gian về thể loại truyện cổ tích của nhà văn. Thứ
nhất, đó là đặc điểm hư cấu, được thừa nhận bởi tác giả và người nghe hoặc
độc giả. Thứ hai, hình thức truyện là tự sự. Có thể nói, những đặc
điểm này là chung đối với truyện cổ tích của nhà văn.
Chúng
tôi đã cố gắng chỉ ra một số đặc điểm truyện cổ tích của nhà văn trong
quan hệ đối sánh với truyện cổ tích dân gian. Những sáng tác của các nhà văn
Việt Nam mà tiêu biểu là các tập Chuyện hoa chuyện quả của Phạm Hổ là
biểu hiện cụ thể của thể loại này trong nền văn học viết ở Việt Nam. Trong
tương lai, việc đi sâu phân tích tác phẩm văn học để chỉ ra một cách sinh động
về những đặc trưng thể loại, ngõ hầu sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về một thể loại
văn học mới rất đáng được quan tâm nghiên cứu.
Võ Quang Trọng
Tư
liệu tham khảo
1. Vân
Thanh (1989), Phạm Hổ với tuổi thơ, Tạp chí Văn học, Hà Nội,
tr.35.
2. Chu
Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Trường Đại
học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, tr.25.
3.
N.V.Nôvicôp (1971), Truyện cổ tích văn học trong các ghi chép và xuất bản
thời kì đầu, Leningrat, tr.50.
4. V.P.
Anhikin (1969), Truyện cổ tích Nga trong sự chế tác của các nhà văn,
Nxb. Văn học nghệ thuật, Mátxcơva, tr.4.
Nguồn: Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét