(LNK). Sinh viên ngành GDMN có thể tham khảo.
Được mời dạy chuyên đề
về Phương pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tôi chợt nhận ra rằng
mảng thơ thiếu nhi đầy sức sống, trong sáng và vui tươi của Huy Cận rất phù hợp
với trẻ.
Tôi đã quen điệu buồn trong thơ của chàng trai
được mệnh danh buồn nhất trong phong trào thơ Mới (lấy ý Hoài Thanh):
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu” (Ê chề)
Đó là phong cách thơ Huy Cận trong thi tập Lửa
thiêng (1940), trong đó Tràng giang là bài thơ tiêu
biểu đã được đưa vào giảng dạy tại lớp 11. Song song đó, tôi cảm mến hai trạng
thái trái ngược nhau trong thơ ông: buồn đến da diết trong Lửa thiêng và
vui tươi, đầy sức sống trong những bài thơ viết cho trẻ em, nhất là trong
tập Hai bàn tay em.
Được mời dạy chuyên đề về Phương
pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tôi chợt nhận ra rằng mảng thơ
thiếu nhi đầy sức sống, trong sáng và vui tươi của Huy Cận rất phù hợp với trẻ.
Nó không chỉ giúp học sinh tiểu học tập đọc mà giúp cả các bé mầm non rất nhiều
trong phát triển ngôn ngữ, trí tuệ; đồng thời góp phần bồi dưỡng, khơi mở thêm
những tình cảm nền tảng tốt đẹp.
1. Văn học trong việc giáo dục trẻ và đặc điểm
cảm thụ thơ của trẻ mầm non
1.1. Ý nghĩa của văn học trong việc giáo
dục trẻ em
Thứ nhất, văn học thiếu nhi góp phần giáo dục
nhận thức cho trẻ. Văn chương là tấm gương phản ánh muôn mặt hiện thực đời
sống. Qua tác phẩm văn học, trẻ sẽ hiểu biết hơn về cuộc sống xung quanh.
Thứ hai, văn học thiếu nhi giúp trẻ phát triển
về ngôn ngữ và làm phong phú thêm đời sống tâm lý. Khi được nghe và đọc tác
phẩm văn học, trẻ sẽ dần hình thành khả năng tưởng tượng nên những hình ảnh mà
ngôn ngữ thể hiện; tiếp đó, trẻ sẽ sắp xếp, đánh giá các hình tượng trong tác
phẩm ấy. Từ quá trình này, trẻ sẽ phát triển dần khả năng tập trung tư duy, ghi
nhớ và tưởng tượng. Song song đó, trẻ phát triển dần khả năng nghe và nói để
tăng vốn từ cả về số lượng và chất lượng; các kiểu câu đa dạng dần, trẻ bớt từ
chêm xen (vì cần kéo dài thời gian tư duy); biết lựa chọn từ và trật tự từ để
diễn đạt ý mình ngắn gọn, có giá trị biểu cảm cao.
Thứ ba, văn học thiếu nhi góp phần giáo dục đạo
đức cho trẻ. Sự phong phú, vui tươi của thế giới bên ngoài đã tác động, khơi
gợi, kích thích thế giới tâm hồn trẻ, khiến trẻ bắt đầu biết cách đồng cảm với
cảm xúc của nhân vật, từ đó chú ý đến thái độ, xúc cảm, tình cảm của những
người xung quanh bằng cách noi gương tốt, luôn tỏ ra mình là người công bằng,
chính trực, thích bảo vệ người yếu đuối, bị xúc phạm, lên án những người độc
ác.
Thứ tư, văn học thiếu nhi còn góp phần giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ bằng cách cảm nhận vẻ đẹp của âm thanh, ngữ nghĩa trong ngôn
ngữ văn học, cảm nhận được cái đẹp của hình tượng nghệ thuật, của tính nhạc,
tính chuẩn xác, biểu cảm trong tác phẩm văn học. Trẻ cũng cảm nhận được những
gì mà trẻ coi là chưa hay, chưa đẹp trong tình cảm, hành vi ứng xử hàng ngày.
Ngoài ra, văn học còn là phương tiện giao tiếp,
giải trí và là một trong những liệu pháp y tế cho trẻ.
1.2. Đặc điểm cảm thụ thơ của trẻ mầm non
Người ta thường cho trẻ tiếp cận tác phẩm truyện
từ khi trẻ 24 tháng trở lên, nhưng có thể cho trẻ tiếp cận với thơ từ khi trẻ
mới 6 tháng tuổi.
Từ 6 tháng đến 24 tháng tuổi: trẻ học nói, thích
lặp lại từ ngữ, thích những âm thanh lặp đi lặp lại vui tai. Vì vậy, giai đoạn
này, người lớn thường chọn những tác phẩm ngắn, nhịp ngắn, nhiều từ láy (ở
chương trình mầm non gọi là từ lấp láy).
Từ 24 đến 36 tháng: trẻ đã có thể thuộc bài thơ
dài 4-8 hàng. Trẻ cũng chưa chú ý đến nội dung mà thích thú với vần và nhịp của
bài thơ. Trẻ cũng chưa biết cách bộc lộ cảm xúc qua bài thơ.
Từ 36 tháng đến 6 tuổi: Vốn từ của trẻ đã tăng
nhiều nên trẻ có thể cảm nhận được nội dung và hình thức của bài thơ, trẻ rất
thích đọc đi đọc lại những bài thơ có vần điệu tươi sáng và có thể trả lời được
những câu hỏi đơn giản, biết bộc lộ cảm xúc của mình về bài thơ.
Dựa trên đặc điểm ngôn ngữ, tâm lý của trẻ như
trên, chúng ta nhận thấy rằng: thơ thiếu nhi Huy Cận phù hợp cho trẻ từ 3 tuổi
trở lên, đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi. Bài viết này không có tham vọng trình bày
hết được đặc điểm nội dung, hình thức mà chỉ quan tâm đến mảng đề tài trong thơ
thiếu nhi Huy Cận mà thôi. Thơ thiếu nhi Huy Cận có đề tài rất phong phú, xuất
phát từ những gì rất gần gũi, quen thuộc nảy sinh trong đời sống xung quanh
trẻ.
2. Đề tài trong thơ thiếu nhi Huy Cận
2.1. Đó là thiên nhiên tươi đẹp, hấp dẫn, gợi
trí tò mò cho trẻ
Rất nhiều bài thơ của Huy Cận tái hiện nên thiên
nhiên đầy sức sống, rất có hồn qua nghệ thuật nhân hóa. Mỗi hình ảnh của thiên
nhiên đều gắn liền với hành động của con người, biểu thị sắc thái của con
người, nhất là những hành động thường thấy ở trẻ nhỏ. Bài thơ Mỗi sớm mai về là
bài thơ tiêu biểu:
“Mỗi sớm mai về
Gió lo dậy trước
Tay gió vuốt ve
Mát rờn mặt nước
Con sông thức tỉnh
Uốn mình vươn vai
Giấc ngủ còn dính
Trên mi sương dài…”
Âm thanh trong thơ thiếu nhi Huy Cận rất rộn rã
cuốn hút bạn đọc nhỏ tuổi. Đó là tiếng ve gọi hè về trong bài Hè về…:
“Hè về
Hàng me
Ve sầu
Ve ve…
Ve gọi
Hè về
Rộn ràng
Inh ỏi
Tiếng ve
Dắng dỏi
Ai mà
Không
nghe?...”
Bài thơ có nhịp thơ đôi, câu thơ rất ngắn, âm
thanh sôi động nên thích hợp cả với trẻ mới hai, ba tuổi nếu tách đoạn cho trẻ
đọc. Bài thơ này ngoài thể hiện lòng yêu tiếng ve đặc trưng của mùa hè còn thể
hiện sự tò mò, lý luận rất trong sáng của đứa trẻ - những điều giúp trẻ có khám
phá thế giới xung quanh:
“Ve ơi
Cái cổ
Không lớn
Không dài
Mà sao
Hát mãi
Không rè
Không sai?...”
Câu hỏi dễ thương trên xuất phát chính nhờ sự
liên tưởng giữa những gì bé chứng kiến ở mình và ở những người xung quanh rằng
hát nhiều sẽ bị rè, bị sai… Câu trả lời của ve cho bé cũng dễ thương không kém:
“Bé ơi
Chăm học!
Sắp nghỉ
Hè rồi…
Ve còn
Giục thêm
Lúa chiêm
Chín rộ
Cuối mùa
Phượng nở
Ve rồi
Nghỉ
ngơi!”
Ồ, thì ra không phải ve rong chơi ca hát suông
mà đang thực hiện nhiệm vụ rất cao cả: nhắc bé chăm học, giục lúa chín mau … Đó
là một sự liên tưởng đầy thú vị, rất đáng yêu nhưng cũng nhẹ nhàng giáo dục
nhân cách cho trẻ: không nên rong chơi mà hãy làm những việc có ích.
Bài thơ Con chim chiền chiện là một bài thơ rất
hay được đưa vào chương trình tập đọc cho học sinh cấp Một. Bài thơ có âm hưởng
thật vui tươi, sôi động. Chẳng còn “chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều sa” nhỏ
bé, uể oải, trĩu nặng tâm tư nữa, ở bài thơ này chỉ có con chim chiền chiện
“bay vút, vút cao” với “tiếng hót long lanh” vì “lòng vui bối rối, Đời lên đến
thì”… Bài thơ sử dụng một loạt từ ngữ âm vực cao trong, từ láy hoặc lặp lại rất
thu hút trẻ như: vút, vút cao; cao hoài, cao vợi, long lanh, sương chói; tiếng
ngọc trong veo; bay cao, cao vút, hót… Tiếng chim ắt hẳn vang lắm, trong lắm
mới vang xa, cao vút đến thế. Đó là tiếng chim hay tiếng lòng náo nức, ngây
thơ, trong sáng, không gợn chút suy tư đang thả hồn vào khoảng trời cao rộng,
rộn rã tiếng chim, rực rỡ sắc màu?
“Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta” (Con chim chiền chiện)
Thiên nhiên trong thơ thiếu nhi Huy Cận còn là
những cái cây đầy sức sống vào buổi bình minh:
“Cây sấu lá nhiều
Cây bàng lá mượt
Tre ngà lá thêu” (Mỗi sáng mai về)
Hay trưa hè gắt nắng:
“Buổi trưa lim dim
Nghìn con mắt lá
Bóng cũng nằm im
Trong vườn êm ả” (Buổi trưa hè)
Bông hoa dại, con bướm trắng đẹp hơn vì đó là
hình ảnh của thiên nhiên tràn đầy sức sống, một thiên nhiên “Âm thầm rạo rực”:
“Hoa dại thơm hơn
Giữa giờ trưa vắng
Con bướm chập chờn
Vờn đôi cành nắng” (Buổi trưa hè)
“Gió” là bài thơ tái hiện các trạng thái khác nhau của hiện tượng
tự nhiên này. Bài thơ đã mang tính lý giải để nâng cao nhận thức của trẻ rất
rõ:
“Bé ơi gió đến
Từ biển từ rừng
Gió đi vội vã
Núi đồi khom lưng.
Gió qua lũng sâu
Gió còn huýt gió
Mây mở to buồm
Gió phùng má thổi.
Vườn ngô phấn rực
Tay gió điểm hoa
Lòng gió thơm phức.
Mối tình nở hoa
Ngọn tre: gió cao
Liễu: gió tha thướt:
Gió đậu cành mai
Hoa cải trắng nuột.
Khi gió giận dữ
Gió lốc gió cồn
Cây kia mất gió
Đứng thừ hoàng hôn”.
Viết về thiên nhiên, cũng như bao nhà thơ viết
cho thiếu nhi khác, Huy Cận đang giáo dục trẻ tình yêu thiên nhiên, rèn thêm
cho trẻ kĩ năng quan sát các hiện tượng tự nhiên xung quanh mình, qua đó góp
phần nâng cao tri thức cho trẻ.
2.2. Đó là thế giới đồ vật và những con vật, cây
trồng gần gũi thân quen
Đọc thơ thiếu nhi Huy Cận, chúng ta nhận thấy
những hình ảnh quen thuộc của đời sống nông dân ở nông thôn xưa. Trong đó, hình
ảnh con trâu, con gà, con mèo… được xuất hiện với tần suất khá cao. Bằng nghệ
thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng phong phú, những con vật này
không chỉ mang hành động, tính cách của con người mà nhiều khi mang cả lý trí
của con người. Ta bắt gặp những hình ảnh như thế trong nửa sau bài thơ Mỗi sáng
mai về:
“Trâu sừng cong lại
Như hai vành trăng…”
Gà mái giục luôn
Hợp tác! Hợp tác!...”
“Mèo con ngơ ngác
Meo meo, meo meo…”
Chú bò nằm nghỉ, rơm thơm giữa trưa hè cũng đi
vào thơ Huy Cận giản dị, mộc mạc:
“Bò ơi, bò nghỉ
Sau buổi cày mai
Có gì ngẫm nghĩ
Nhai mãi nhai hoài…
Thóc hợp tác phơi
Bên sân dinh rộng
Nghe đảo từng hồi
Lúa rơm thơm nóng” (Buổi trưa hè)
Có lẽ vì con trâu gắn bó với bé, giữ một vai trò
đặc biệt trong tâm thức của bé nên số lượng bài viết về trâu trong thơ Huy Cận
nhiều hơn hẳn so với các con vật khác. Tình yêu thương của bé đối với con trâu
thật sâu sắc, tiêu biểu qua bài Thương trâu, một bài thơ lục bát có giọng điệu
tâm tình như bài ca dao:
“Người ta đi ngủ gối chăn
Con trâu đi ngủ thân trần đêm đông
Thương trâu, em chẳng yên lòng
Rạ rơm lót đệm, phên chuồng em che…”
Người đọc cảm nhận được trái tim nhân hậu của bé
qua việc quan tâm đến giấc ngủ và những nhọc nhằn mà trâu phải chịu.
Con vật quanh bé còn là “Con tằm ăn dâu/
Nghe như mưa rào”, còn là con dế quen nấp đầu hồi bị giật mình vì quả bưởi
rơi. “Bé” trong bài thơ Buổi trưa hè cũng như nhiều bài thơ khác của Huy Cận
lúc nào cũng căng các giác quan kết hợp với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế để cảm
nhận thế giới xung quanh mình.
Những con vật mà bé quan tâm còn là con tôm hay
đi giật lùi (Con tôm), con lợn lủn chủn no rồi nằm lăn (Thơ đố), con cóc ngồi
gọi mưa (Con cóc), con sóc nhanh thoăn thoắt, nghịch ngợm, lấy đuôi quét trời,
làm xiếc điệu nghệ (Con sóc), những con cá chép, cá mè, cá trắm, cá rô (Cá),
con nghé nhí nhảnh (Thi nghé), con bê con, bò mẹ, lợn nái, con gà, con dê, con
cá (Trong hội mùa xuân)… Những bài thơ viết về con vật trong thơ thiếu nhi Huy
Cận thật phong phú.
Thế giới xung quanh bé còn là những dòng chữ bé
viết, những hình bé vẽ, những mô hình bé dựng nên, dù vụng về nhưng ngộ nghĩnh
đáng yêu:
“Có chữ tên của bố
Có chữ tên của con
Chữ của bố hơi béo
Chữ của con gầy hơn
Thứ bảy chơi vườn hoa
Con nhặt sỏi làm nhà
Con dành riêng bố ở
Phòng rộng hơn nhà ta…” (Tuần lễ của con)
Đằng sau cái mô hình nhà ở không có mái và phòng
của bố rộng hơn cả nhà ta đang ở chính là tấm lòng hiếu thảo của đứa con thơ.
Tính nhân hậu của bé gắn liền với những đồ dùng,
không hẳn chỉ vì nghèo khó mà còn vì sự gắn bó, yêu thương, đã truyền từ anh
sang em như chiếc áo cũ trong bài Chiếc áo cũ của bé:
“Chiếc áo cũ của bé
Vải bạc, vải lành nguyên
Bé lớn rồi bé để
Cho em bé mặc chuyền…”
Việc chuyền áo cho em mặc, đối với bé, là một
minh chứng rằng anh đã lớn, anh rất biết quan tâm chăm sóc em:
“Bé tự hào đã lớn
Sắn tay áo cho em…”
Bởi lẽ:
“Chim lớn cánh tập bay
Nhường chim non ấm tổ
Ôi chiếc áo, chiếc áo!
Một ruột mẹ rứt ra
Anh em cùng máu mủ
Chiếc áo liền thịt da”
Đó là những dòng thơ đầy tính luận đề, khẳng
định tình yêu thương của anh em ruột thịt. Những dòng thơ ấy góp phần xây đắp
trong lòng độc giả nhỏ tuổi tình cảm anh em tốt đẹp và thiêng liêng.
Những bài thơ viết về cây cối cũng đem lại cho
bạn đọc nhỏ tuổi những cảm xúc thú vị. Đọc bài thơ Cây chuối, chắc hẳn trẻ sẽ
học hỏi được nhiều điều và trí tưởng tượng của trẻ thêm bay bổng:
“Cây chi lá lại làm cành
Hoa làm ngọn đỏ, trái thành bàn tay.
Lá non lụa nõn trải bày
Áp vào mát má những ngày trẻ thơ.
Chẳng bao tháng đợi năm chờ
Đầu xuân trồng đó, bây giờ đã ăn
Thịt vàng đã ngọt mười phân,
Cốm xanh điểm ngọc bội phần mát thơm.
Chuối xanh xanh bãi, xanh vườn
Em trồng khóm chuối sân trường cũng xanh
Chuối ơi lấy lá làm cành
Che hầm trú ẩn, lại dành trái ngon…”
Ngay cả những hình ảnh như dây điện, cột điện
cắt trời xanh đi vào thơ Huy Cận cũng dễ thương vô cùng vì nó giống nét xổ, nét
ngang của em trong trang vở (Điện về hợp tác xã). Không chỉ những đồ chơi dân
gian như chong chóng (Chong chóng) mới đem lại cho trẻ niềm vui, những thứ
trước đó vốn xa lạ với bé nay đã trở nên gần gũi qua phép liên tưởng, so sánh
với những gì diễn ra xung quanh bé.
2.3. Đó là tình cảm đối với những người thân
quen
Bé rất yêu mến cô giáo vì cô tập cho chúng con
hát, cô dạy, cô bảo, cô kể bao điều mới lạ, cô cũng rầy nếu bé chưa tốt nhưng dù
cô có rầy đi chăng nữa cũng là để con trở nên tốt hơn, hòa đồng với các bạn hơn
(Tuần lễ của con). Bài thơ tưởng chừng như lời kể rất khách quan của trẻ về
tuần lễ của mình cho bố nghe nhưng ẩn nấp sau đó là tình yêu quý cô giáo, sự
tin tưởng, gần gũi của bé với bố:
“Con chui vào lòng bố
Thương biết mấy là thương” (Tuần lễ của con)
Tình bố con còn được ví như cành với cây gắn bó
sâu sắc:
“Con đi theo bố như cành
Bố bên con tự cây lành ra hoa”
(Mỗi chiều tới đón con về)
Mẹ với con trong bài Em bé và mặt trăng thật
quấn quýt, yêu thương:
“…Mẹ là trăng, con bá cổ hôn
Con là trăng nở, mẹ ôm vào lòng…”
Hình ảnh bà cho tằm ăn được tái hiện qua “tay
già lao xao” (Buổi trưa hè). Đọc câu thơ này, người đọc chợt nhớ đến câu tục
ngữ “…nuôi tằm ăn cơm đứng”, câu tục ngữ khẳng định sự vất vả của nghề chăn
tằm. Nhưng âm thanh do đôi bàn tay của bà khi cho tằm ăn lại hoàn toàn không hề
gợi cảm giác vất vả, thậm chí còn có giọng điệu khá vui tươi. Câu thơ đã thể
hiện được tác giả rất hiểu đặc điểm tâm lý trẻ thơ, trẻ thơ chưa biết sướng
khổ, vất vả, khổ cực nhưng trẻ thơ thích thú với hành động, âm thanh vui tươi
của cuộc sống.
Bài thơ Chị và em đong đầy tình cảm nồng thắm.
Chị mới năm tuổi, em hai tuổi. Chị cao hơn em một cái đầu những chững chạc,
luôn có ý thức che chở cho em, coi việc chăm sóc em là trách nhiệm của mình,
nhất là khi người lớn đều vắng nhà:
“Bích từ khi có em
Không chơi búp bê nữa
Ngủ với em suốt đêm
Tay ôm, lòng che chở”.
Đọc bài thơ này, nếu bé là chị, bé sẽ biết yêu,
biết che chở em hơn; nếu bé là em, bé sẽ cảm thấy quý mến, trân trọng hơn những
tình cảm thiêng liêng mà chị đã dành cho mình.
Thơ thiếu nhi Huy Cận còn góp phần xây dựng tình
yêu đối với những người sẵn lòng hi sinh cho đất nước. Đó là thầy giáo quyết
định rời mái trường đi tòng quân (Thầy giáo đi tòng quân), anh Vừ A Dính anh
hùng, mưu trí (Vừ A Dính), hai em bé miền Nam mưu trí góp phần làm tan rã trận
càn của địch (Hai em bé miền Nam bẻ gãy một trận càn của địch), em bé Quảng
Bình anh dũng (Em bé Quảng Bình)… Từ việc ca ngợi những anh hùng nhỏ tuổi, tác
giả đã tạo nên tấm gương sáng cho các em nhỏ noi theo. Dẫu rằng giá trị lịch sử
của những bài thơ như thế bị mờ dần do trẻ đang sống trong thời bình, nhưng nếu
người lớn biết trích dẫn hợp lý thì đó lại là những dẫn liệu rất tốt để xây dựng
tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho trẻ.
3. Kết luận
Tóm lại, thơ thiếu nhi Huy Cận rất phong phú về
chủ đề và đó là những chủ đề rất gần gũi với trẻ, giúp trẻ tăng cường hiểu biết
về xung quanh, từ đó đem lại cho trẻ những bài học đạo đức nhẹ nhàng.
Người ta từng tìm hiểu tại sao người Do Thái
thông minh vượt bậc và một trong những lý do đã được khẳng định là người Do
Thái cho con học thuộc Kinh Coran ngay từ khi rất nhỏ. Ở Nhật Bản, giáo viên
mầm non thường cho trẻ học thuộc thơ haicư từ rất sớm… Kinh Coran hay thơ haicư
ở đây được coi là những ngữ liệu giúp trẻ tăng vốn từ, tăng khả năng ghi nhớ,
làm phong phú thêm thế giới tư tưởng, tình cảm của trẻ. Đây không phải là những
ngữ liệu bắt buộc, người ta có thể thay thế những ngữ liệu này thành những ngữ
liệu khác, miễn rằng những ngữ liệu ấy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
trẻ. Từ sự liên hệ trên, người viết cảm thấy rằng có thể chọn thơ thiếu nhi Huy
Cận làm ngữ liệu để giúp phát triển những kĩ năng trên cho trẻ, nhất là trẻ mầm
non. Tuy nhiên, trong thơ thiếu nhi Huy Cận có những bài mang nặng dấu vết thời
đại, thậm chí những bài đó mang sắc thái ám thị hoặc duy ý chí rất rõ, vì vậy,
người lớn cần lựa chọn những bài phù hợp với cho trẻ mầm non làm quen, tránh
làm cho trẻ mệt mỏi, chán nản, thiếu hứng thú.
Người lớn nên chọn những bài thơ có tính thẩm mĩ
cao để cho trẻ làm quen. Đó là những bài thơ thể hiện rõ sự đánh giá đúng-sai,
phải-trái, tốt-xấu, yêu-ghét… Thơ nên có vần nhịp dễ đọc, nhân vật có tính cách
rõ ràng, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, tình tiết đơn giản, hài hước, kết cấu
theo trục thời gian… Những tác phẩm đạt được tiêu chuẩn như thế đã được chúng
tôi đề cập một phần trong bài viết.
Nhà giáo Phương Hà
Nguồn:
CLB NGƯỜI YÊU SÁCH NGUYỄN HUY TƯỞNG
Chia sẻ hay
Trả lờiXóamáy tính hà nội
màn hình máy tính
mua máy tính cũ
màn hình máy tính cũ
Cảm ơn thầy đã chia sẻ!
Trả lờiXóa