Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2022

TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG




Nhận định: "Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là một trong những người đặt nền móng cho nền văn học thiếu nhi trong giai đoạn mới. Các tác phẩm viết cho thiếu nhi của ông cho đến nay vẫn được coi là mẫu mực của nền văn học thiếu nhi Việt Nam, nhiều tác phẩm đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường ở nhiều cấp học..." (Mai An).


Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 tại xã Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông rất tâm huyết với việc sáng tác cho các em, có nhiều đóng góp cả về hai phương diện sáng tác lẫn tổ chức phong trào sáng tác. Nhà văn Tô Hoài cho biết: “Còn nhớ chúng tôi ra loại sách Kim Đồng bấy giờ vào quãng năm 1951, ở chiến khu Việt Bắc. Các anh Nguyễn Huy Tưởng, anh Hồ Trúc, anh Phong Nhã và tôi thường có những cuộc bàn bạc rất hào hứng về việc viết cho thiếu nhi. Lần nào gặp nhau vẫn sôi nổi chuyện ấy, lo lắng chuyện ấy”. Nhà văn Phạm Hổ cũng có chia sẻ tương tự: “Ngôi nhà Nguyễn Huy Tưởng ở một góc phố đường Bà Triệu bỗng chốc đã thành nơi gặp mặt của những người say mê với công việc sáng tác cho các em lúc bấy giờ. Tô Hoài, Lưu Hữu Phước, Thy Ngọc, Hồ Thiện Ngôn, Phạm Hổ... Có thể nơi đó là hạt nhân của nhà xuất bản Kim Đồng sau này...Và chúng ta không ai quên, người phụ trách đầu tiên của nxb Kim Đồng chính là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng”.

Trước năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tác cho các em. Tuy nhiên, phải đến giai đoạn sau cách mạng tháng Tám, nhất là khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, Nguyễn Huy Tưởng mới quan tâm được nhiều hơn tới việc viết cho các em. Nhà văn từng ước ao “đem lại cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến một bộ truyện chói lọi hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng (...), viết lại cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp như kiểu một pho truyện trường thiên cực kỳ hấp dẫn, một lần đã đọc qua suốt đời không thể quên”. Nguyễn Huy Tưởng luôn tìm tòi, nghiên cứu để viết sao cho phù hợp, cho hấp dẫn các em. Tô Hoài rất có lí khi khẳng định: “Nguyễn Huy Tưởng viết cho các em ít. Nhưng những tác phẩm của anh để lại thật đã giá trị”.

1. Truyện cổ viết lại

Trước cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng đã viết truyện cổ cho các em. Hiện chỉ còn lại Truyện bánh chưng. Sau cách mạng, nhà văn tiếp tục thể loại này qua các truyện: Con Cóc là cậu ông Giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con chim Trĩ lông trắng... Trên cơ sở cốt truyện dân gian, nhà văn đã “viết lại” với nhiều sáng tạo độc đáo.

Cụ thể, Truyện Bánh chưng được viết lại từ cốt truyện dân gian Bánh chưng, bánh giầy. Bằng một lối kể riêng, nhà văn đã tái hiện không khí sôi nổi, nhộn nhịp mà không kém phần gay cấn của ngày hội kén chọn người kế nghiệp của vua Hùng: “Kinh đô nhộn nhịp những người, áo quần rực rỡ. Mọi người đều chú ý đến cái án thư của Hoàng Cả trên có đặt thanh gươm báu (...). Rồi mọi người lại chỉ trỏ, trầm trồ khen ngợi những tráp, những hòm sơn son thếp vàng của Hoàng Hai, cờ ngũ hành bay chung quanh phấp phới(...). Không mấy ai chú ý đến đám nông dân gánh bánh đi sau, người nào cũng đi chân đất, ăn mặc nâu sồng như một vết bẩn trong đám người áo quần lộng lẫy. Nhưng ai cũng phải ngây ngất vì mùi thơm ngào ngạt của bánh, và say sưa nghe tiếng hót của trăm nghìn con chim bay lượn quanh đầu bà con nông dân”. Hoàng Ba, nhân vật chính của câu chuyện là một người không thích đời sống kinh đô, “chỉ muốn sống với vườn ao ruộng nương”. Anh chất phác, cần cù, thức khuya dậy sớm; sống gắn bó với mọi người; thương yêu vợ con. Sản phẩm dự thi của Hoàng Ba là những chiếc bánh được làm từ gạo và đỗ. Hương vị đồng quê đã trở thành hương vị chiến thắng. Những chiếc bánh của Hoàng Ba không chỉ làm vừa lòng vua cha mà còn cả với những người anh vốn xưa nay sẵn lòng ganh ghét, khinh bỉ: “Đây là mồ hôi nước mắt của chú Ba, tự tay chú Ba chế ra bánh này, ai làm cũng được, ai cũng được ăn. Của chúng con là của phi nghĩa, không sao bì được với bánh của chú Ba. Chúng con hối là đã khinh bỉ chú Ba. Chúng con vô cùng hổ thẹn”. Lời thừa nhận của Hoàng Cả, Hoàng Hai là một sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng. Cái xấu bị đẩy lùi, thế giới chỉ còn là nơi ngự trị của cái tốt. Xử lý như vậy là cần thiết, phù hợp với tâm hồn trẻ thơ!

Truyện Con Cóc là cậu ông Giời được nhà văn viết lại trên cơ sở truyện thần thoại Cóc kiện Trời. Qua tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Tưởng muốn xây dựng cho các em hình ảnh một chú Cóc gan dạ, biết làm điều tốt. Tình huống câu chuyện là trần gian hạn hán, cây cối khô cháy, loài vật lắt lay. Tình huống đó làm nảy sinh ở Cóc một ý nghĩ: “Không nuốt được Giời thì lên hỏi Giời sao không mưa, sợ gì”. Hai tiếng “sợ gì” biểu lộ được tính gan dạ của Cóc. Trong vai trò thủ lĩnh, Cóc dẫn đầu đoàn quân đi đòi mưa. Hình ảnh đoàn quân đi đòi mưa được nhà văn miêu tả thật đẹp, là một đội quân có tổ chức, có trật tự: “Cóc giơ cao lá cờ đi trước. Da Cóc càng sần sùi. Miệng Cóc càng rộng. Da Cóc càng lồi. Ếch , Nhái lại nhảy lao xao theo Cóc...”. “Cóc giơ cao lá cờ, nhảy lên ngồi trên một hòn đá cao(...), dõng dạc nói với các bạn...”. So với truyện dân gian, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều đổi mới trong cách viết. Nhà văn sử dụng tối đa lối văn trùng điệp và đối thoại. Đặc biệt câu nói của Cóc: “Giời cao đi mãi cũng tới” được nhà văn điệp lại nhiều lần, có tác dụng tô đậm vẻ đẹp tính cách nhân vật. Đọc truyện này của Nguyễn Huy Tưởng hẳn các em sẽ đồng tình hơn với chân lý: “Tuy xấu xí nhưng nó rất có công và tốt bụng”.

Trong số các truyện cổ viết lại, An Dương Vương xây thành Ốc là một tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về An Dương Vương, Nguyễn Huy Tưởng chỉ tập trung khai thác chiến công xây thành của ông. Sự lựa chọn này là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu sáng tác cho thiếu nhi. Vẻ đẹp hình tượng An Dương Vương trước hết là vẻ đẹp của một con người biết lo nghĩ, hết lòng vì vận nước. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng miêu tả cho các em về một giấc mơ của An Dương Vương. Trong giấc mơ, An Dương Vương được thần núi Thất Diệu bày cho kế xây thành. Giấc mơ vốn có quan hệ với hiện thực. Nó thường là hệ quả của một quá trình lo nghĩ, nhớ nhung. Trong trường hợp An Dương Vương, giấc mơ là hệ quả của quá trình lo nghĩ. Đất nước đang đứng trước họa xâm lăng. Làm sao để chống được giặc? Nếu không suốt ngày lo nghĩ, ám ảnh về một cái thành chống giặc, làm sao An Dương Vương lại có thể có một giấc mơ như vậy? Nội dung giấc mơ được miêu tả khéo, tạo cảm giác bất ngờ và thú vị. Không chỉ là người lo nghĩ, An Dương Vương còn là con người hành động. Vẻ đẹp này được Nguyễn Huy Tưởng miêu tả qua viêc nhà vua cùng thần Kim Quy đi diệt Gà Tinh ở gò Ông Cô. “...Kim Quy trỏ thẳng kiếm tiến lên trước. Lưỡi kiếm sáng như ánh giăng. An Dương Vương cũng trỏ thẳng kiếm, tiến sau. Lưỡi kiếm cũng sáng như ánh giăng. Hai lưỡi kiếm lấp loáng trong đêm tối. Vua và Kim Quy chạy như bay về gò Ông Cô”. Kê Tinh có tài biến hoá, gian giảo. Cho nên, diệt được nó không phải là chuyện dễ. Người và thần sánh bước bên nhau, cùng nhau truy diệt cái ác. An Dương rất mạnh mẽ, quyết liệt. Kê Tinh bị diệt. Sự nghiệp xây thành hứa hẹn thành công từ đây...Trong An Dương Vương xây thành Ốc, Nguyễn Huy Tưởng khá nhiều chi tiết đắt. Chẳng hạn, chi tiết “vua ứa nước mắt” khi nghe tin nhân dân Phong Khê giết hết gà sống hòng giúp vua trừ Kê Tinh. Hay chi tiết vua “vuốt râu mỉm cười” khi biết tin giặc đã cận kề. Con người này rất giàu tình cảm, biết trân trọng sự hi sinh của nhân dân đồng thời cũng bình tĩnh tự tin khi đối mặt với kẻ thù. Thành Cổ Loa là một chiến công, một giá trị văn hoá lớn của nhân dân Au Lạc. Tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã thực sự đem đến cho các em một niềm tự hào lớn. Sức hấp dẫn của tác phẩm, ngoài hình tượng An Dương Vương còn phải kể đến nghệ thuật trần thuật, lối miêu tả so sánh và điệp câu tạo không khí thúc bách của hoàn cảnh lịch sử...

So với các tác phẩm trên, Tìm mẹ có phần đặc biệt hơn. Tác giả cho biết, truyện này được viết “theo một truyện cổ tích Tây Nguyên”. Điều này thực hư thế nào cần được tiếp tục làm rõ. Nếu có, thì truyện của Nguyễn Huy Tưởng đã “khá xa rời nguồn gốc của nó”. Như tên gọi, tác phẩm kể về hành trình đi tìm mẹ của hai em Nhà và Gạo. Mẹ các em bị lạc trong một lần đi tìm cái ăn cho các con: “Người mẹ đã đi lùng hết rừng núi, đầu sông ngọn nguồn để tìm con, nhưng không gặp. Ngày đêm người mẹ chỉ khóc, nước mắt người mẹ đã mờ đi”. “ Con Gạo đem manh áo rách của người mẹ ra phơi. Nhớ mẹ, Gạo khóc, nước mắt của Gạo rơi xuống đất. Thằng Nhà vừa nhớ mẹ vừa thương em, nước mắt của Nhà rơi xuống đất”. Cảnh ngộ của ba mẹ con thật đáng thương, nhất là khi Nhà và Gạo rơi vào tay Hổ. Bằng sự mưu trí, hai em đã tranh thủ được sự giúp đỡ của cô vợ hổ, của đại bàng. Cuối cùng hai em đã tìm được mẹ. Truyện đậm chất trữ tình, hấp dẫn bởi nhiều hình tượng, tình tiết lạ...

Truyện Thằng Quấy cũng viết về em bé miền Nam nước Việt. Tên là Quấy nhưng em làm được nhiều việc tốt. Quấy thông minh. Em lập mưu giết được hổ, trói được voi, trị được ông Giăng, đặc biệt giết chết chúa làng. Đọc truyện Thằng Quấy, các em hẳn sẽ thích thú trước chuyện Quấy giết được chúa làng. Mô típ “voi bay” vốn có nguồn gốc dân gian, được tác giả sử dụng lại, vẫn gây được nhiều hứng thú.

2. Truyện lịch sử

Không chỉ kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy Tưởng còn là nhà kể chuyện lịch sử cho các em. Với Lá cờ thêu sáu chữ vàng Kể chuyện Quang Trung, Nguyễn Huy Tưởng đã thực sự tạo được một dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các em.

Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản. Nhân vật người thiếu niên anh hùng này xưa nay được biết đến qua giai thoại “tay bóp nát quả cam lúc nào không hay biết”. Cho đến thời điểm Nguyễn Huy Tưởng viết “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, lai lịch, hành động và công trạng của Trần Quốc Toản vẫn còn là một bí ẩn lịch sử. Nhà sử học Lê Văn Lan, tác giả của “Sóng nước Bạch Đằng” ghi nhận: “Đầu những năm 60, chưa mấy ai biết những điều này. Nhưng bằng cách của mình, Nguyễn Huy Tưởng là người đầu tiên, đưa ra những thông tin mới, cụ thể, chính xác về những vấn đề như thế. Tôi ngờ rằng chính những lần thâm nhập địa bàn Bắc Ninh cũ đã giúp Nguyễn Huy Tưởng có những thu hoạch này, trước cả những nhà khoa học. Và như thế, là nhà làm văn nghệ về đề tài lịch sử, nhưng Nguyễn Huy Tưởng còn làm luôn cả công việc nghiên cứu của nhà sử học”. Như vậy, Nguyễn Huy Tưởng đã dành nhiều công sức tìm hiểu lịch sử, rồi trên cơ sở tôn trọng sự thật lịch sử, nhà văn thực hiện quyền hư cấu nghệ thuật của mình. Nhà văn đã tạo nên những trang văn đầy sức hấp dẫn.

Tác phẩm mở đầu bằng việc mô tả Trần Quốc Toản đang trải qua một giấc mơ: “Chàng mê thấy chính tay mình bắt sống được Sài Thung, tên sứ hống hách của nhà Nguyên, khinh nước Nam bằng nửa con mắt”. Như đã biết, Nguyễn Huy Tưởng đã từng rất thành công với hình thức giấc mơ trong “An Dương Vương xây thành Ốc”. Hình thức giấc mơ đó giờ đây lại được nhà văn tiếp tục khai thác để nói về con người Trần Quốc Toản. Giấc mơ cho thấy khát vọng của người anh hùng trẻ tuổi. Rồi đây, trên những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng, người đọc sẽ được tiếp xúc với một Trần Quốc Toản tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ ở hội nghị Bình Than, khí phách hiên ngang trong từng cuộc đối đầu với kẻ thù.

Trần Quốc Toản là một người giàu nghĩa khí. Sinh ra trong thời buổi “sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường”, Trần Quốc Toản cũng như bao nhiêu người dân Đại Việt khác cảm thấy mình cần có trách nhiệm hơn đối với lịch sử. Biểu hiện đầu tiên là suy nghĩ “việc nước là việc chung, không cho bàn, ta cũng bàn”. Khi được gặp nhà vua ở bến Bình Than, Trần Quốc Toản nói toàn những lời chí khí:

- “ Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đến đứa trẻ con cũng phải lo, huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước, nhưng cháu có phải giống cỏ cây đâu mà ngồi yên được? Vua lo thì kẻ thần tử cũng phải lo...”

- “ Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước”.

Trần Quốc Toản vì còn quá trẻ nên không được dự hội nghị Bình Than để bàn việc nước. Biết rằng, làm trái quân lệnh là tự đặt mình vào chỗ chết nhưng Trần Quốc Toản vẫn mạo hiểm, vượt qua sự ngăn cản của quân Thánh Dực, tiếp cận được nhà vua và nói những lời tâm huyết. Trần Quốc Toản tìm đến hội nghị Bình Than được Nguyễn Huy Tưởng khai thác, xây dựng thành một sự kiện quan trọng soi sáng bản chất anh hùng của nhân vật. Hư cấu nghệ thuật đã làm cho sự kiện lịch sử trở nên sinh động, cụ thể. Các chi tiết liên kết, hỗ trợ nhau nhằm tôn lên vẻ đẹp hình tượng. Thông qua các lời nói, hành động, ta thấy Trần Quốc Toản là một người trai trẻ có thừa nhiệt huyết song vẫn có cái xốc nổi, bồng bột. Tuy nhiên cái đáng quý ở con người này là tinh thần đánh giặc. Nguyễn Huy Tưởng quả đã có dụng ý khi để hành động đến hội nghị Bình Than của Trần Quốc Toản được soi ngắm từ hai phía. Một phía là trân trọng. Đại diện là nhà vua: “Hoài Văn làm trái phép nước, tội ấy đáng lẽ không dung. Nhưng Hoài Văn còn trẻ, tình cũng đáng thương, lại biết lo cho dân, cho nước, chí ấy đáng trọng”. Phía khác là kì thị. Trần Ích Tắc yêu cầu “chém đầu để nghiêm quân lệnh”. Cái nhìn bao dung đã thắng. Ấy cũng chính là cái chiến thắng của lòng yêu nước. Đỉnh điểm chí khí Trần Quốc Toản ở bến Bình Than chính là sự việc bóp nát quả cam mà không hề hay biết. Nguyễn Huy Tưởng chuẩn bị những chi tiết phù hợp để lí giải hành động này. Trần Quốc Toản được ban cam. Trần Quốc Toản liều chết nhưng không được chấp nhận dự bàn việc nước. Trần Quốc Toản nghe tiếng cười chế nhạo của các vương “chỉ nhỉnh hơn mình mấy tuổi” đã được dự bàn, tiếng cười của đám quân Thánh Dực... Ấm ức, hậm hực, “Hoài Văn quắc mắt, nắm chặt bàn tay lại(...). Hai bàn tay càng nắm chặt lại, như để nghiền nát một cái gì”. Kết quả, “quả cam đã nát bét, chỉ còn trơ bã”. Bàn tay bóp nát quả cam là biểu hiện đẹp đẽ của tinh thần yêu nước, khát vọng đánh giặc.

Vẻ đẹp hình tượng Trần Quốc Toản còn được nhà văn miêu tả qua quá trình “chiêu binh mãi mã” và những trận chiến sinh tử với kẻ thù. Trên quan điểm điển hình hoá nhân vật, Nguyễn Huy Tưởng tiếp tục chọn lựa các sự kiện, tình huống nhằm tô đậm tính cách anh hùng của Trần Quốc Toản. Lí tưởng đánh giặc của Trần Quốc Toản được thể hiện rõ trên lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Để có những chữ này, Trần Quốc Toản đã phải suy nghĩ rất nhiều. “Chữ đề phải quang minh chính đại như ban ngày. Chữ đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho kẻ địch kinh hồn”. Quốc Toản đã chiêu tập được sáu trăm thanh niên vùng Võ Ninh, ngày đêm luyện tập, lập thành một đội quân tinh nhuệ, chủ động đi tìm giặc mà đánh. Quân của Hoài Văn đã hợp sức cùng quân của Nguyễn Thế Lộc, gây thanh thế cả một vùng Lạng Giang – Lạng Sơn. Chiến công đầu của Trần Quốc Toản là đã giải vây cho chú mình là Chiêu Thành Vương trên đường đi truy bắt kẻ phản bội Trần Ích Tắc. Gặp lại đứa cháu yêu quý, Chiêu Thành Vương không khỏi ngạc nhiên: “Vẫn là đứa cháu vẫn còn bụ sữa mà sao bây giờ đường đường khí thế hiên ngang. Vẫn là tiếng nói của đứa cháu trai mới vỡ tiếng mà sao rắn rỏi không ngờ”. Sau chiến công này, đội quân của Trần Quốc Toản được thừa nhận, được giao nhiệm vụ chặn đánh giặc trên cửa Hàm Tử. Trận Hàm Tử là một trận lớn. Nguyễn Huy Tưởng tỏ ra say sưa khi miêu tả trận đánh này. Hình ảnh Trần Quốc Toản được nhà văn miêu tả bằng những nét bút hoành tráng : “Thuyền của Hoài Văn lướt như gió. Tới đuôi chiến thuyền của Toa Đô, Hoài Văn quay mũi thuyền của mình lại, nhảy phắt lên thuyền giặc(...). Toa Đô đang mãi đánh đằng mũi, bỗng nghe thấy đằng sau lưng tiếng quân mình kêu khóc. Toa Đô giạt mình quay lại, chưa kịp kêu, thì Quốc Toản đã bay tới. Từ trên mui thuyền nhảy xuống, dùng hết sức bình sinh, Hoài Văn đá phốc vào cái bàn tay hộ pháp mang quả chuỳ đáng sợ. Ngọn chuỳ văng lên cao, rơi xuống sông...”. Hình ảnh Trần Quốc Toản cuối tác phẩm cũng là một hình ảnh đẹp, lãng mạn: “Hoài Văn hầu dẫn sáu trăm gã hào kiệt ầm ầm đi đuổi Toa Đô đang chạy tháo thân ra bể. Lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng căng phồng lên trong gió hè lồng lộng thổi. Dưới lá cờ bay cao, gươm giáo tua tủa như hàng rào, nghiêng nghiêng trong bụi mù, nhoà dần trong bóng chiều đổ xuống”.

Trần Quốc Toản là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Như đã nói, Nguyễn Huy Tưởng miêu tả nhân vật này theo nguyên tắc điển hình hoá. Đây là nhân vật tuổi trẻ, tài cao, chí khí anh hùng của một thời oanh liệt chống Nguyên – Mông. Để làm rõ phẩm chất anh hùng của nhân vật, Nguyễn Huy Tưởng đã lần lượt đặt Trần Quốc Toản vào các tình huống gay cấn, các thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Qua mỗi tình huống, mỗi thử thách, vẻ đẹp anh hùng của nhân vật được bộc lộ ra. Nguyễn Huy Tưởng cũng đã dụng công khi miêu tả Trần Quốc Toản trong các mối quan hệ với chú Chiêu Thành Vương, với mẹ, với người tướng già...Các mối quan hệ này soi sáng một phía khác con người Trần Quốc Toản. Với mẹ, Trần Quốc Toản là một đứa con ngoan. Với người tướng già, Trần Quốc Toản là một con người tình nghĩa. Thật xúc động khi đọc đoạn văn miêu tả Trần Quốc Toản băng bó vết thương cho người tướng già : “Hoài Văn ôm lấy người tướng già, lòng Hoài Văn đau như cắt. Cánh tay phải của người tướng già bị chém đã lìa khỏi vai, máu chảy lênh láng. Chòm râu bạc cũng nhuốm máu hồng loang lổ. Máu thấm vào chiến bào của Hoài Văn. Quốc Toản lấy gươm cắt vạt áo bào buộc vết thương mà một người lính đã rịt bằng thuốc Mán. Hoài Văn nhìn người tướng già, mặt chàng buồn rười rượi...”. Tính cách Trần Quốc Toản nhìn chung được miêu tả nhất quán: tình nghĩa và nghĩa khí.

Trên tạp chí Văn nghệ (1961), tác giả Thiều Quang ghi nhận: “Nguyễn Huy Tưởng có rất nhiều sáng tạo về hình tượng trên, cả về tình cảm, về nhân vật, về cá tính cũng như về chi tiết hành động mà không vi phạm đến những nét lớn của sử liệu...”. Tuy nhiên, Thiều Quang cũng đã chỉ ra đến “cách sáng tác hư cấu quá xa với cơ sở dữ liệu” ở sự kiện Trần Ích Tắc chạy trốn, Trần Quốc Toản đánh thắng Toa Đô.

Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thành công quan trọng của Nguyễn Huy Tưởng. Bao thế hệ thiếu nhi đã rất say mê đọc tác phẩm này của nhà văn. Nếu biết rằng, viết xong tác phẩm này, nhà văn vào luôn bệnh viện và “trong những ngày cuối cùng nằm trên giường bệnh, ông vẫn luôn chú ý đến việc in truyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”. Nhưng tiếc thay, sách chưa in xong thì nhà văn đã mất” hẳn các em sẽ thêm phần yêu quý nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, người suốt đời tâm huyết với sự nghiệp văn học cho thiếu nhi.

Tài năng viết truyện lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng còn được thể hiện ở Kể chuyện Quang Trung. Người anh hùng nông dân áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ từ lâu đã trở thành một đề tài hấp dẫn, thu hút mối quan tâm của nhiều nhà văn. Đi vào đề tài này, Nguyễn Huy Tưởng có cách khai thác riêng. Tác phẩm của nhà văn chỉ tập trung miêu tả cuộc hành quân thần tốc ra Bắc để tiêu diệt hai mươi vạn quân Thanh của vua Quang Trung. Với các em, sự lựa chọn như thế là phù hợp.

Hình tượng Quang Trung trong tác phẩm là hình tượng một vị tướng tài ba, có tầm nhìn xa trông rộng, khéo léo điều khiển đoàn quân. Ông giả vờ ngủ để thăm dò ý chí của binh lính. Ông không nề hà khi đi mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tham gia vào sự nghiệp cứu nước. Ông biết dựa vào người dân Thăng Long để hạ gục kẻ thù. Ông cũng biết nghe lời khuyên mà cho sửa sang lại Văn Miếu. Lại nữa, biết chuẩn bị để nhanh chóng thiết lập lại quan hệ ngoại giao với nhà Thanh sau khi cuộc chiến kết thúc...

3. Truyện kháng chiến

Ngoài truyện cổ tích và lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng còn là tác giả của một số truyện về đề tài kháng chiến. Đáng chú ý trong số đó là Hai bàn tay chiến sĩ và Chiến sĩ ca nô.

Truyện Chiến sĩ ca nô kể về chiến công của em Tý. Cha mẹ, anh em Tý đều đã chết trong nạn đói năm 1945. Bằng sự mưu trí và gan dạ, Tý đã cùng các anh du kích kéo được cả một đoàn thuyền của địch về cho ta. Với chiến công này, Tý đã được thưởng huân chương chiến sĩ hạng nhì.

Truyện Hai bàn tay chiến sĩ kể về tinh thần chiến đấu ngoan cường của người đảng viên tên Bẩm. Bẩm bị giặc bắt, bị đốt cháy hai bàn tay. Dù thân thể rất đau đớn nhưng Bẩm vẫn cắn răng chịu đựng, không hé nửa lời khai. Trên con đường trở về với đồng đội, Bẩm đã chết đi sống lại mấy lần. Cuối cùng anh đã chiến thắng, “không phải vì có xương đồng da sắt, mà vì anh có một tấm lòng tin sắt đá vào Đảng, vào các đồng chí của anh, vào chính bản thân anh”.

Truyện kháng chiến của Nguyễn Huy Tưởng nhìn chung được viết bằng một lối văn rất mực giản dị. Sức hấp dẫn của câu chuyện chính là ở các tình tiết, các sự kiện. Chẳng hạn, truyện Hai bàn tay chiến sĩ được mở đầu bằng cảnh Bẩm lên báo cáo thành tích, Bẩm giơ cao đôi bàn tay cho mọi người xem. “Cả hội nghị cảm động nhìn đôi bàn tay tàn tật của anh. Đôi bàn tay còng queo, teo lại. Các ngón tay đều cụt, một hai ngón tay còn lại thì dại dột như mấy cây trơ trụi trong một cái vườn đã cháy hết”. Lối mở đầu tự nhiên như thế lại trở nên rất cuốn hút các em...

***

Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn rất tâm huyết với việc sáng tác và xây dựng nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Đóng góp lớn nhất của Nguyễn Huy Tưởng về sáng tác là những truyện cổ và truyện lịch sử. Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều đặc sắc. Nhà văn thường sử dụng câu văn ngắn, khai thác tối đa biện pháp trùng điệp và so sánh, giọng kể tự nhiên, hồn hậu… Những chuyện của Nguyễn Huy Tưởng có khả năng tác động sâu sắc vào tâm hồn các em.

LÊ NHẬT KÝ

Nguồn : Văn học cho thiếu nhi, ĐH Quy Nhơn, 2003,

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét